N. S. Khrushốp
Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Báo cáo mật tại phiên họp kín ngày 25-2-1956
của Đại hội lần thứ XX đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô
-----------------------------------------------------------
Lời nói đầu của TĐX
Đỗ Tịnh dịch theo bản tiếng Pháp -Tái bản lần thứ hai, có sửa chữa và chỉnh lý -Tủ sách Nghiên cứu Boite Postale 246 75224 Paris Cedex 11 France
TĐX: Cùng với sự ra đời của một loạt sách của các tác giả Việt Nam đề cập tới những vấn đề lịch sử Việt Nam cận đại (Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật của Bùi Tín, ĐGBN của Vũ Thư Hiên, Công Lý Đòi Hỏi của Nguyễn Minh Cần) nhiều bạn đọc TDX gửi thư tới cho Ban Biên tập yêu cầu tìm giúp bản Báo Cáo Mật do cố tổng bí thư DCSLX Nikita Khrushốp đọc tại Đại hội XX Đảng cộng sản Liên Xô, mà các tác giả nói trên đều nhắc tới, coi như một văn kiện cực kỳ quan trọng, đánh dấu một chuyển biến vĩ đại trong lòng phong trào cộng sản quốc tế, cũng như trong phe các nước xã hội chủ nghĩa.
Theo sự đánh giá của những nhà xã hội học thì cùng với sự xuất hiện của Báo Cáo Mật là thời kỳ mở đầu cho những mưu toan đổi mới, tiếc thay, thường nửa vời, của những người cộng sản có lương tri hòng sửa chữa một thể chế được xây dựng trên những cơ sở xã hội hoàn toàn mới nhưng lại bị hư hỏng ngay từ đầu và ngày càng tỏ ra không thích ứng với cuộc sống của nhân loại ở ngưỡng cửa của thiên niên kỷ đang tới. Từ bản Báo Cáo Mật này một cuộc đấu tranh chống lại chế độ toàn trị đã nổ ra trên toàn cõi của phe các quốc gia xã hội chủ nghĩa, kéo theo nó rất nhiều bi kịch, nhưng cuối cùng đã đem lại sự thay đổi bộ mặt của hành tinh, như chúng ta đã biết.
Vì bản Báo Cáo Mật trước nay bị đảng cộng sản giữ trong vòng bí mật, không một lần được dịch ra tiếng Việt ở trong nước, cho nên để đáp ứng yêu cầu của những bạn đọc ham tìm hiểu lịch sử, chúng tôi xin đưa lên trang TDX bản dịch của Tủ sách Nghiên cứu tại Paris xuất bản năm 1982, đã được chỉnh lý lại cho lần xuất bản trên mạng Internet này.
Kèm theo, chúng tôi xin giới thiệu hai bài thơ của Tố Hữu, nhà thơ lớn của Việt Nam, sáng tác vào thời kỳ trước Đại hội XX của DCSLX để bạn đọc hiểu thêm không khí của thời kỳ xa xưa ấy.
Chúng tôi xin cảm tạ các dịch giả của Tủ sách Nghiên cứu đã có nhã ý cho chúng tôi được sử dụng bản dịch của các vị cho mục đích hữu ích.
VNThư quán
----------------------------------
Lời giới thiệu
(Cho lần tái bản thứ nhất)
1956! Ba năm sau khi Stalin chết, đảng cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội lần thứ XX, nhằm mục đích thay đổi chính sách, sửa đổi sai lầm, cải tổ đảng và cải tổ chế độ. Ngày bế mạc Đại hội, giữa lúc các đại biểu lục tục kéo nhau ra về, Khrushốp - tổng bí thư đảng - triệu tập một cuộc họp bất thường gồm riêng các đại biểu Liên Xô, không có mặt các đại biểu các đảng anh em. Trước cuộc họp, Khrushốp đã đọc một bản báo cáo, đúng hơn là một bản án, vạch trần những sai lầm và những tội ác của Stalin. Bản báo cáo này đã đi vào lịch sử với cái tên Báo cáo mật của Khrushốp về Stalin (1).
Gọi là "mật", nhưng chỉ trong vòng hai ba ngày, bản báo cáo của Khrushốp đã được dịch ra khắp các thứ tiếng, lưu hành khắp các nước không nằm dưới quyền kiểm soát của các đảng cộng sản. Đây là một sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch sử. Nó mở đầu một thời kỳ chuyển biến của hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới. Nó đánh dấu một bước ngoặt quyết định dẫn tới sự băng hoại của chủ nghĩa Stalin cùng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu như ta đã thấy.
Ngay sau khi bản báo cáo này được công bố trên các báo chí, tờ Tiếng thợ - cơ quan tuyên truyền của Nhóm trốt-kít ViệtNam ở Pháp - đã trích dịch nhiều đoạn và viết bài bình luận. Ơ± Việt Nam, tại miền Bắc, nhóm Nhân văn Giai phẩm có gián tiếp nói tới. Tại miền Nam, các báo chí nói tới nó rất nhiều. Nhưng theo chỗ chúng tôi biết, chưa có ai và chưa có nơi nào dịch nguyên bản ra tiếng Việt. Phải đợi tới tháng 10-1982, tờ tạp chí Nghiên cứu - cơ quan lý luận của Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp - mới dịch và in ra toàn bộ, từ bản tiếng Pháp. Hai ngàn số đã được phát hành, phần lớn ở Pháp và các nước Tây Âu, một phần nhỏ gửi về Việt Nam. Hiện nay chúng tôi không còn số nào cả, ngoài một hai số giữ làm lưu chiếu.
Hơn lúc nào hết, chúng tôi nhận thấy cần phải tái bản cuốn sách này. Không những vì tầm quan trọng lịch sử mà còn vì tác động chính trị của nó đối với các đảng cộng sản sta-lin-nít, trong đó có đảng cộng sản Việt Nam. Không phải tình cờ mà đảng này, cho tới nay, vẫn giấu giếm và ngăn cấm Báo cáo mật của Khrushốp về Stalin đối với nhân dân trong nước. Cũng không phải tình cờ mà đảng này vẫn cấm ngặt không cho ai được nói tới Stalin. Vì nói tới Stalin là phải nói đến những sai lầm và tội ác của Stalin; phải nói tới đường lối chính trị của đảng trong nhiều năm đã học đòi Stalin, coi Stalin là thần tượng và gương mẫu; phải nói tới phương pháp mà đảng đã áp dụng trong việc thủ tiêu các thành phần và các tổ chức đối lập với đảng, trong đảng cũng như ngoài đảng.
Tái bản cuốn sách này, chúng tôi giữ lại nguyên văn bản dịch của dịch giả Đỗ Tịnh, không sửa chữa. Bạn đọc sẽ thấy bài diễn văn của Khrushốp là văn nói, mộc mạc và ít chú trọng tới văn phong.
Chúng tôi cũng in lại nguyên văn bài Mấy lời nói đầu của Hà Cương Nghị. Viết từ hơn mười năm nay, bài này vẫn còn thích hợp với thời cuộc. Hà Cương Nghị đã đề cập một số vấn đề - hồi ấy ít ai lưu ý - hiện nay trở thành đề tài và đối tượng của các phong trào đòi dân chủ đa nguyên, đa đảng, đối lập với lập trường của đảng cộng sản. Â y là các vấn đề: đảng và nhà nước, độc tài một đảng, chuyên chính vô sản, tập trung dân chủ v.v...
Cũng trong bài Mấy lời nói đầu, tác giả nêu lên hai nhận định mà hồi ấy ít ai quan tâm. Một, những sai lầm và tội ác của Stalin mà Khrushốp vạch ra, vẫn còn thiếu sót một phần lớn. Khrushốp chỉ nói tới giai đoạn cuối đời Stalin từ năm 1937, nhưng "bỏ quên" những giai đoạn trước đó, khi 90% đồng chí thân cận của Lênin bị giết hại. Vì thế, những người này chưa được phục hồi danh dự. Hai, sự "cải tổ" do ban lãnh đạo đảng cộng sản Liên Xô đứng ra chủ trương, thực ra chỉ là một biện pháp tự bảo vệ của giới quan liêu cộng sản để tồn tại. Nó không thể dẫn tới dân chủ, càng không thể dẫn tới sự tái thiết nền dân chủ xô-viết mà chỉ có một cuộc cách mạng chính trị, lật đổ chính quyền quan liêu cộng sản mới thực hiện nổi. Mỗi bước "cải tổ" sẽ tạo ra những điều kiện dẫn tới sự sụp đổ của chế độ.
Sáu năm trôi qua. Nhận định thứ nhất đã được thời cuộc gần đây chứng minh: năm 1988, ba năm sau khi lên chính quyền, Góocbachốp đã bắt buộc phải trở lại vấn đề những tội ác của Stalin. Dưới áp lực của dư luận, Bộ Chính trị của đảng cộng sản Liên Xô đã phải tuyên bố xóa án cho Dinôviép, Bukharin và hầu hết những đồng chí kỳ cựu của Lênin. Trừ một nạn nhân quan trọng nhất, gần gũi nhất của Lênin về mặt tư tưởng là Lép Trốtsky! Vì sao? Vì Trốtsky không những là người đối lập kiên quyết nhất với Stalin mà còn là người đối lập không khoan nhượng với toàn thể đẳng cấp quan liêu cộng sản đang nắm giữ chính quyền ở điện Kremlin. Quan liêu cộng sản chấp thuận "cải tổ", nhưng họ không chấp nhận đầu hàng!
Nhận định thứ hai cũng đã được thực tế kiểm chứng: chính sách "cải tổ" của Góocbachốp không những đã thất bại như Khrushốp thời kỳ 1956 mà nó còn kéo theo sự sụp đổ của Liên Xô và tất cả các nước "xã hội chủ nghĩa hiện tồn" ở Đông Âu. Sự sụp đổ này không những làm thượng tầng kiến trúc sụp đổ mà còn kéo theo sự sụp đổ của hạ tầng cơ sở do cách mạng tháng Mười dựng nên; giờ đây, khẩu hiệu của giới quan liêu cộng sản là Trở về với chế độ tư bản!
Vì không có một cuộc cách mạng chính trị do quần chúng lao động đứng lên lật đổ quan liêu cộng sản, lập lại nền dân chủ xô-viết của cách mạng tháng Mười, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã mang hình thức một cuộc "sụp đổ nội tại" (implosion) tự trong lòng chế độ quan liêu cộng sản. Hàng ngũ quan liêu cộng sản bị phân tán, nhưng một bộ phận quan liêu vẫn nắm giữ được chính quyền, mặc dầu chính quyền này lệ thuộc phần nào vào lá phiếu của dân chúng.
Đứng về phương diện chính trị, dầu sao đây cũng là một bước tiến bộ. Nhân dân Liên Xô từ nay thoát khỏi chế độ độc tài đẫm máu do Stalin dựng nên. Bây giờ, họ có cơ hội để nhận xét, lựa chọn, thử nghiệm: chế độ nào thích hợp với quyền lợi và nguyện vọng của họ!
Đứng về phương diện lịch sử, đây là một hiện tượng hoàn toàn mới lạ, chưa từng có. Một chuyển biến ngược chiều. Mọi sự hầu như đều trở về điểm xuất phát. Tương lai nước Nga và các nước Đông Âu sẽ ra sao? Chưa ai có thể quyết đoán. Một điều chắc chắn là sự chuyển hóa các nước này thành các chế độ tư bản và dân chủ như các nước Tây phương không phải là điều dễ dàng như nhiều người tưởng. Nhiều triệu chứng cho thấy sự thiết lập một nền dân chủ - dầu là dân chủ tư sản - ở những nước này vẫn còn bấp bênh. Chưa có dấu hiệu gì bảo đảm cho sự thành công của nó.
Tái bản cuốn sách này, chúng tôi mong cống hiến các đảng viên chân chính của đảng cộng sản Việt Nam một bằng chứng về Stalin và chủ nghĩa Stalin, để họ có điều kiện suy ngẫm và tìm hiểu: vì đâu Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ như ngày nay?
Chúng tôi mong cống hiến các độc giả một tài liệu để nhận xét sự quái đản của hiện tượng Stalin, là hiện tượng tiêu biểu cho tư duy và quyền lợi của đám quan liêu cộng sản. Nó không dính líu gì tới chủ nghĩa Mác, là chủ nghĩa nhân bản, nhằm mục tiêu giải phóng lao động và các tầng lớp nhân dân bị áp bức và bóc lột.
Ước mong cuốn sách này sẽ tới tay mọi người, nhất là tới tay đông đảo đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, gia nhập đảng vì muốn đấu tranh cho một lý tưởng cao đẹp!
Nguyễn Tiến Cơ
Paris, ngày 10 tháng Giêng 1994
(1) Tựa đề nguyên thuỷ của bản báo cáo là "về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó"
----------------------------------
Mấy lời nói đầu
(Cho lần tái bản thứ nhất)
Dưới sức nặng những tội ác của y, Stalin sẽ biến mất trên sân khấu, với tư cách kẻ đào mồ chôn vùi cách mạng và có bộ mặt ghê tởm nhất trong lịch sử.
Lép Trốtsky (1937)
Cách đây 26 năm, tháng 2-1956, có một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đã xảy ra ở Liên Xô và trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đó là bản Báo cáo mật của Khrushốp - Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Liên Xô - đọc trong dịp Đại hội lần thứ XX của đảng.
Bản báo cáo này gọi là "mật" vì nó được đọc trong phòng kín. Ngoài các đại biểu Liên Xô, không ai được có mặt, kể cả các đại biểu những đảng cộng sản "anh em". Khrushốp nói: "Việc gì cũng có giới hạn của nó", "không được giặt áo bẩn trước mắt kẻ thù."
Tuy nhiên, bản báo cáo này đã được phát riêng cho trưởng đoàn các phái đoàn anh em(1). Các lãnh tụ cộng sản như Panmirô Tôgliátti (Y ), Môrixơ Tôrê (Pháp), Chu Đức (Trung Hoa), Trường Chinh (Việt Nam), v.v... đều được biết. Những người này khi trở về nước, có người chối cãi sự thật như Tôrê, có người công nhận sự thật như Tôgliátti; nhưng không ai can đảm đem sự thật ra thông báo trước các đảng viên của đảng. Riêng có một nhà lãnh đạo Ba Lan(2 )đã ngầm đem phát hành trong nội bộ đảng cộng sản Ba Lan, gây ra một cuộc thảo luận sôi nổi trong hàng ngũ đảng này. Một bản của báo cáo đó lọt vào tay cục tình báo C.I.A. Mỹ ở Ba Lan. Tờ New York Times (Mỹ) nhận được và dịch đăng trên số báo ra ngày 16-3-1956. Tiếp sau là tờ Le Monde ở Pháp. Và chỉ trong vòng hai tháng, các báo chí tư sản toàn thế giới đều đăng tin. Ơ Pháp hồi đó, tờ Tiếng thợ do Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp chủ trương có trích dịch và viết bài bình luận.
Bản báo cáo của Khrushốp là một văn kiện có một không hai trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó là bản cáo trạng buộc tội Stalin, người đã cầm đầu Liên Xô và được phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tôn sùng trong ba chục năm ròng. Nó không những chỉ vạch ra những sai lầm về chính trị; điều quan trọng nhất là nó đã tố giác Stalin về tội bạo ngược, giết hại hàng vạn, hàng triệu(3 )người vô tội, trong đó một số đông là cộng sản. Lịch sử từ thời đại Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc, chưa từng có vụ thảm sát nào đại quy mô và được che đậy hàng chục năm như thế. Ngay như vụ Hítle thủ tiêu dân tộc Do Thái cũng chưa tới mức độ trầm trọng như Stalin. Mà sự tàn ác của Hítle là thế nào thì nhân loại đã biết ngay trong thời Hítle còn sống.
Những ai được biết tiểu sử của Stalin do các đảng cộng sản thế giới tuyên truyền hàng chục năm sẽ thấy đây là một bản cáo trạng phá bỏ mọi truyền thuyết mà người ta đã dựng nên xung quanh con người Stalin. Mặc dầu vậy, theo nhận xét của chúng tôi, cáo trạng này vẫn còn phiến diện, còn nhiều chỗ thiếu sót, hoặc cố ý thiếu sót.
Trốtsky và phong trào Đệ tứ Quốc tế - trong ba mươi năm chính quyền Stalin - đã từng vạch ra những điều mà ngày nay Khrushốp đưa ra ánh sáng. Bạn đọc chỉ cần coi những cuốn Stalin, Những tội ác của Stalin v.v... của Trốtsky hay những sách của Víchto Ségiơ viết về Stalin, sẽ thấy rõ. Nhưng dư luận thường chỉ coi đó là "sự tranh chấp đảng phái". Ngày nay, chính Khrusốp, người thân cận Stalin trong hàng chục năm, chính Khrusốp, người kế nghiệp Stalin, lại đứng ra buộc tội Stalin. Dầu Khrusốp chỉ mới vạch ra một phần sự thật - người ta không thể đòi hỏi nhiều hơn ở một người đã từng là cộng sự gần gụi của Stalin - nhưng một phần sự thật này cũng đủ chứng tỏ vai trò tiêu cực và tội ác của Stalin mà Trốtsky và phong trào Đệ tứ đã nói.
Trái với truyền thuyết hàng mấy chục năm, trình bày Stalin như một lãnh tụ "đại tài", một chính trị gia và lý thuyết gia "lỗi lạc", một chiến lược gia "siêu phàm", "kiệt xuất", v.v..., Stalin, thực ra, đã phạm vô số sai lầm chính trị nghiêm trọng, "gây rất nhiều tổn thất" cho đảng cộng sản và nhân dân Liên Xô.
Một trong những sai lầm hết sức to lớn là Stalin đã coi thường họa phát-xít Đức, khiến quân đội Hítle đã tiến sâu vào nội địa Liên Xô một cách nhanh chóng. "Tại sao? Vì Stalin, mặc dầu sự việc đã rành rành, vẫn tưởng chiến tranh chưa xảy ra." Mặc dầu có nhiều tin mật báo cho biết Hítle sắp đem quân tràn qua biên giới, Stalin vẫn tưởng "tất cả những điều này chỉ là hành động khiêu khích của vài đơn vị binh lính vô kỷ luật trong quân đội Đức, đòn giáng trả của chúng ta sẽ là cái cớ cho người Đức làm bùng nổ cuộc chiến". Ngoài ra, trước ngày chiến tranh diễn ra, Stalin đã "thủ tiêu nhiều người trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo quân sự và chính trị vào thời kỳ 1937-1941. Trong những năm đó, các cuộc trấn áp đã tiêu diệt những tầng lớp cán bộ quân sự nhất định: hầu như từ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến những lãnh đạo quân sự cấp cao nhất. Trong thời kỳ đó, các nhà lãnh đạo quân đội - từng kinh qua chiến trận ở Tây Ban Nha và Viễn Đông - đã bị giết gần hết."
Những sai lầm nói trên đã dẫn tới "kết quả là ngay trong những ngày giờ đầu cuộc chiến, ở các vùng biên giới, kẻ thù đã phá hủy phần lớn không quân, pháo binh và các trang bị quân sự khác" của Liên Xô. Cạnh đó, "chúng đã sát hại một phần đáng kể các cán bộ quân sự và phá hoại Bộ Tham mưu Quân sự" xô-viết.
Trái với truyền thuyết ghi trong Tiểu sử của Stalin, cho rằng "thiên tài lỗi lạc" Stalin đã tạo ra các chiến thắng về quân sự, cho rằng "đồng chí Stalin đã thảo ra luận đề về những yếu tố thường xuyên quyết định vận mệnh chiến tranh", "đã nhận biết và làm thất bại những kế hoạch của địch", v.v..., Khrushốp nói: "Stalin hoàn toàn không hiểu những sự kiện diễn ra ở trận tuyến", nhiều lần "đưa ra các mệnh lệnh không căn cứ vào tình hình thực tế của trận tuyến, đem lại rất nhiều tổn thất không tránh thể khỏi cho quân đội ta"; đáng lẽ phải biết nhận xét tình hình quân sự trên một bản đồ quân sự, "Stalin bày kế hoạch hành binh trên mặt một quả địa cầu dùng cho học trò".
Sau khi nhiều tỉnh lỵ thất thủ, Stalin trở nên hoang mang dao động và "mất lòng tin"; "trong một thời gian dài, trong thực tế Stalin không điều khiển các cuộc hành quân, nói chung đồng chí ấy không làm gì cả". Sau này, nhờ "các đại tướng [...] biến đổi tình hình", các mặt trận được củng cố và mở cuộc phản công, lúc ấy, Stalin mới trở lại lãnh đạo theo lời yêu cầu của Bộ Chính trị. Nhưng chiến tranh vừa chấm dứt, Stalin đã "đặt dấu hỏi về công trạng của nhiều nhà chỉ huy quân sự, những người đã có công đánh bại quân thù(4); đồng chí ấy không thể chấp nhận những công lao ở mặt trận lại có thể do những kẻ khác làm nên".
Một lỗi lầm khác nữa của Stalin được vạch rõ trong bản báo cáo với nhiều dẫn chứng, là vấn đề nông nghiệp. Nông nghiệp Liên Xô chậm tiến vì mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng. Người phải chịu trách nhiệm là Stalin, vì "Stalin chẳng hiểu gì về thực trạng ở nông thôn". "Stalin chỉ biết đất nước và nền nông nghiệp qua phim ảnh. Nhưng những bộ phim này đã tô điểm sự thật trong địa hạt nông nghiệp. Thậm chí, nhiều bộ phim còn miêu tả đời sống các nông trang tập thể dường như thịt gà thịt ngỗng đầy ắp trên các bàn ăn sắp làm chân bàn đổ sụp". Khi đặt chương trình kế hoạch, "Stalin không cần chú trọng đến những sự kiện và con số. Một khi Stalin đã nói một điều gì, điều đó phải là như thế, bởi lẽ Stalin là "thiên tài" và một thiên tài không cần tính toán, chỉ liếc mắt nhìn qua là đã có thể luận ra cách giải quyết mọi việc".
Một sai lầm nữa chẳng kém phần quan trọng là vấn đề xung đột với Nam Tư. Trong vấn đề này, "Stalin đã đóng một vai trò nhục nhã": "Không có một nguyên cớ đáng kể nào khiến "vụ" này phát triển: hoàn toàn có thể tránh được sự đoạn tuyệt với Nam Tư". Nhưng Stalin đã tin là "chỉ cần vẩy ngón tay út là Titô không còn nữa. Hắn sẽ đổ!" Liên Xô đã trả một giá đắt cho việc "vẩy ngón tay út" của Stalin. Stalin đã quen "vẩy ngón tay út" là mọi người đều phải đổ hoặc bị thủ tiêu. Nhưng "mặc dầu Stalin ra sức vẩy - chẳng những ngón út mà mọi thứ có thể lay chuyển khác -, Titô vẫn không đổ". "Vì sao? Bởi lẽ sau lưng Titô có cả một nhà nước và một dân tộc đã trải qua trường học gian khổ của cuộc chiến đấu cho tự do và độc lập, một dân tộc ủng hộ những nhà lãnh đạo của họ".
Trái với truyền thuyết trình bày Stalin như một vị lãnh tụ hiền hậu, nhân ái, thương yêu cụ già, em trẻ, thương yêu nhân loại, v.v... (5), Khrusốp cho ta thấy Stalin thực ra là một kẻ tàn ác, hai bàn tay đẫm máu; không những đẫm máu những người đối lập như Trốtsky, Bukharin, Dinôviép, v.v..., nhưng còn đẫm máu những bạn đồng hành của mình. Đây là một điều mà Khrusốp không thể chấp nhận được.
Khrusốp nói: "Cuộc điều tra đã cho thấy 98 người trong số 139 ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban chấp hành trung ương do Đại hội thứ XVII bầu ra, nghĩa là 70 %, đã bị bắt bớ và bị xử bắn (phần đông vào những năm 1937-38)." "Trong số 1956 đại biểu đại biểu chính thức và dự thính, 1108 người (nghĩa là đại đa số đại biểu Đại hội) bị bắt và bị kết án phản cách mạng." Mặc dầu Khrusốp "quên" không nói đến những vụ thủ tiêu trước năm 1937-1938; mặc dầu Khrusốp "quên" không nhắc lại vụ án Moskva năm 1936, vụ án quan trọng nhất, trong đó 90% đồng chí lão thành thân cận nhất của Lênin (như Dinôviép, Kamênép, Bukharin, v.v...) bị giết hại cùng hàng ngàn, hàng vạn cán bộ và đảng viên đối lập; mặc dầu Khrusốp "quên" không nêu ra vụ ám sát Trốtsky ở Mêhicô năm 1940 và các vụ giết hại những người trốt-kít trên khắp thế giới do chính sách sta-lin-nít - dù thế, những con số Khrusốp đưa ra cũng đủ chứng tỏ khủng bố đã lớn đến mức độ nào.
Những nạn nhân đều "thú nhận những tội không bao giờ họ vi phạm", "buộc tội chính mình và những người khác". Vì sao? Vì họ "không chịu nổi những tra tấn dã man". Phương pháp lấy khẩu cung là "đánh đập, đánh đập và đánh đập thêm nữa": "Người ta đã tạo ra những lời "thú tội" như thế đó". Ơ đây, Khrusốp đã giúp lịch sử giải luận vấn đề "thú tội" dưới thời Stalin mà các sử gia và các nhà tâm lý như Kớtsle(6) chỉ phóng đoán nhưng chưa tìm ra manh mối.
Dưới thời Stalin, nhiều vụ án giả tạo đã được dựng lên, như "vụ án Lêningrát", "vụ án Grudya", "vụ ám sát Kirốp", vụ bắt giam các bác sĩ "âm mưu đầu độc Stalin", v.v... Đó là "những vụ bắt bớ đồng loạt hàng ngàn người, những vụ hành quyết không xét xử trước tòa án và không qua thẩm xét thông thường". Ai đã âm mưu ám sát Kirốp, một thành viên cao cấp của Bộ Chính trị? Theo Khrushốp, thủ phạm chẳng ai xa lạ mà chính là Stalin, với mục đích tiêu diệt một đối thủ lợi hại và đồng thời mượn cớ vu khống để tiêu diệt những người đối lập mình(7). Vụ bắt bớ các bác sĩ "âm mưu đầu độc Stalin" cũng không ngoài ý nghĩa vụ ám sát Kirốp. Thông qua vụ này, Stalin muốn mượn cớ "thanh toán tất cả các thành viên cũ của Bộ Chính trị". Khrusốp nói: "Không loại trừ khả năng nếu Stalin còn nắm chính quyền thêm vài tháng nữa, có lẽ các đồng chí Môlôtốp và Mikôian không thể đọc tham luận ở Đại hội(8) hôm nay". Đó là "một vụ ngụy tạo từ đầu chí cuối". Cũng may Stalin chết sớm, "không có đủ thì giờ để đi tới đích" và nhờ đó "các bác sĩ còn sống sót".
Stalin đã tạo ra khái niệm "kẻ thù của nhân dân", một quan niệm được sử dụng một cách tinh vi. Dựa trên quan niệm này, người ta không cần dẫn chứng những sai lầm về tư tưởng của cá nhân hay đoàn thể; chỉ cần gán cho đối thủ nhãn hiệu "kẻ thù của nhân dân" là đủ. "Tự bản thân quan niệm "kẻ thù của nhân dân", trong thực tế, đã loại bỏ khả năng mở ra bất kỳ một cuộc đấu tranh tư tưởng nào, hoặc ngăn cản người khác không được phát biểu ý kiến về một vấn đề nhất định, ngay cả khi vấn đề ấy là thực tiễn, chứ không mang tính lý luận".
Khrusốp nói: "Sự thật, khủng bố không nhắm mục đích loại trừ những tàn tích của giai cấp bóc lột đã thất bại, nó chỉ chống lại những viên chức trung thực của đảng và nhà nước xô-viết. Đối với họ, người ta đã ngụy tạo ra những lời buộc tội vu khống và phi lý như bảo họ là "giả dối", "gián điệp", "phá hoại", "chuẩn bị những cuộc mưu sát" giả định với những phương tiện bất hợp pháp v.v..."
Trái với truyền thuyết cho rằng Stalin là người mác-xít, am hiểu vấn đề dân tộc, biết giải quyết vấn đề này trên cơ bản tự quyết bình đẳng bình quyền giữa các dân tộc, Khrusốp cho ta biết vào năm 1943, Stalin đã đưa ra một quyết định "nhằm đày ải dân tộc Karachai khỏi những mảnh đất họ đang cư trú". Cùng năm đó, "tất cả dân chúng nước Cộng hòa Tự trị Kanmức cũng chịu chung một số phận". Năm 1944, "tất cả dân Banca bị đuổi khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Tự trị Kabácđô-Banca đến các vùng khác"(9). Khrusốp đặt câu hỏi: "Không hiểu nổi tại sao có thể buộc tội phản bội cho cả một dân tộc, kể cả phụ nữ, trẻ nhỏ, người già, người cộng sản, đoàn viên Thanh niên cộng sản, v.v...; làm sao có thể áp dụng các biện pháp khủng bố trả đũa với cả một dân tộc - khiến họ phải đau khổ và chịu đựng - vì những hành vi của một số người hay một số tập đoàn chống lại ta?"
Trái với những truyền thống trình bày Stalin như người kế nghiệp xứng đáng của Lênin, Khrusốp vạch rõ sự khác biệt giữa Lênin và Stalin: khác biệt về nhân cách, về phương pháp hoạt động, về chính trị. Để chứng thực, Khrusốp cho phát trong phòng họp Đại hội 16 tài liệu, trong đó có tờ Di chúc chính trị của Lênin mà Stalin đã giấu kín đối với đảng trong vòng ba chục năm. Những tài liệu đó vạch rõ sự bất đồng chính kiến giữa Lênin và Stalin. Đặc biệt, về vấn đề dân tộc Grudya, Lênin trách cứ Stalin đã thi hành một chính sách quốc gia "Đại Nga". Trong một tài liệu(10) đề ngày 5-3-1923, Lênin yêu cầu Trốtsky thay mình bảo vệ trước Ban chấp hành trung ương lập trường đối lập với Stalin và Giécginsky vì hai người này có thái độ "ngược đãi" dân tộc Grudya.
Tờ Di chúc chính trị của Lênin đề ngày 4-1-1923 là tư liệu quan trọng nhất. Trong đó, Lênin đề nghị Ban chấp hành trung ương "thuyên chuyển Stalin khỏi trọng trách" tổng bí thư đảng và "đề cử vào vị trí của Stalin một đồng chí khác, có bản tính tốt hơn so với Stalin". Hai tháng sau, ngày 5-3-1923, Lênin viết cho Stalin một bức thư đoạn tuyện: "Tôi yêu cầu đồng chí suy nghĩ kỹ xem đồng chí có sẵn sàng rút lại những lời đã nói và xin lỗi vợ tôi, hay là chúng ta đoạn tuyệt mọi quan hệ".
Sự thật lịch sử là như thế. Nhưng sau này, Stalin đã mạo nhận là người tiếp nối sự nghiệp của Lênin. Trong cuốn Tóm lược tiểu sử của mình, Stalin đã tự tay viết ra những câu: "Stalin là người kế tục xứng đáng sự nghiệp của Lênin, hoặc - như người ta thường nói trong đảng -, Stalin là Lênin của thời đại ngày nay." Cũng trong cuốn sách này, Stalin còn tự bổ sung: "Đồng chí [Stalin] không hề cho phép mình kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân". Ngoài những giả dối đó, Stalin còn có những hành vi khác "không thể chấp nhận được", như phao tin đồn nói xấu nguyên soái Giukốp, hay đặt ở nhà nguyên soái Vôrôshilốp "một dụng cụ đặc biệt, có thể ghi âm tất cả các cuộc nói chuyện".
Giả dối, xuyên tạc, vu khống, man trá, mạo nhận, đó là những đặc tính của Stalin mà Khrusốp đã lần lượt vạch rõ trong bản Báo cáo mật. Khrusốp nói: "Như mọi người đều biết, cuốn "Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô" đã được một ủy ban của Ban chấp hành trung ương thảo ra". Thế mà, Stalin đã ký tên mình: trong bản in năm 1938, người ta thấy mấy chữ "do đồng chí Stalin viết" trên bìa sách. Khrusốp đặt câu hỏi: "Một biến đổi lạ lùng đã khiến một công trình tập thể thành cuốn sách do Stalin viết?"
Trái với truyền thống của các đảng cộng sản trên thế giới coi cuốn Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô là cuốn sách gối đầu giường của các đảng viên và cán bộ(11), Khrusốp nói nó chứa đựng nhiều sai lầm và xuyên tạc cần phải viết lại(12). Trong cuốn sách này, Stalin đã "biến đổi toàn bộ giai đoạn lịch sử sau cách mạng tháng Mười của đảng cộng sản vinh quang", đã "tỏ ra thiếu kính trọng đối với thành tích của Lênin". Cuốn sách "chủ yếu chỉ nói về Stalin, về những bài diễn văn, những bản báo cáo của đồng chí ấy" và "không hề có một ngoại lệ, dù nhỏ mọn nhất: mọi sự việc đều gắn liền với tên tuổi Stalin". "Mọi biến cố đều được trình bày như thể Lênin chỉ đóng vai trò thứ yếu, ngay cả trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười". Sự thật là: "các đồng chí có mặt ở đây, ít ai nghe và biết đến Stalin trước năm 1924". Ơ đây, Khrusốp "quên" không nói thêm, trong cuộc cách mạng tháng Mười, người ta chỉ thấy cụm từ luôn đi liền nhau là "Lênin và Trốtsky"(13). Stalin đã chiếm đoạt vai trò của Trốtsky trong việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang và sáng lập Hồng quân Liên Xô.
Sự biến đổi công trình một người khác thành công trình của mình còn biểu hiện trong thời kỳ Thế chiến thứ hai. Khrusốp nói: "Khi xem các tiểu thuyết, phim ảnh và những công trình "khoa học" về lịch sử của đất nước chúng ta, ta thấy Stalin có vai trò to lớn hầu như không thể tưởng tượng nổi trong cuộc chiến tranh vệ quốc". "Stalin đã gieo rắc trong đầu óc quần chúng định kiến rằng mọi chiến thắng của đất nước Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đều do đởm lược và thiên tài lỗi lạc của Stalin". Sự thật, "những chiến thắng ấy là kết quả của sự cố gắng vô biên và công sức của toàn thể nhân dân và đảng, và tuyệt nhiên không phải thành quả lãnh đạo của Stalin như người ta từng khẳng định trong thời kỳ sùng bái cá nhân".
Dưới thời Stalin, tệ sùng bái cá nhân đã "đạt đến mức khốc hại", ngoài sức tưởng tượng. Người ta đã tán dương Stalin bằng đủ mọi cách và chính Stalin cũng tự viết ra những câu tán tụng mình. Khrusốp nói: "Cuốn "Tóm lược tiểu sử Stalin" ấn hành vào năm 1948 [...] là thứ xu nịnh ghê tởm nhất, là điển hình cho việc làm thế nào để biến một người - Stalin - thành một vị thánh sống, một hiền nhân không thể sai nhầm, một "lãnh tụ vĩ đại nhất", một "chiến lược gia đại tài của mọi thời đại và mọi dân tộc". Cuối cùng, người ta không tìm nổi từ ngữ để tâng bốc Stalin lên tận mây xanh". Trong những vần thơ của bản quốc thiều, "toàn thể sự nghiệp của đảng lê-nin-nít trên các lĩnh vực giáo dục, chỉ đạo và động viên đều thuộc về Stalin". Khrusốp tuyên bố cần phải viết lại lời cho bản quốc thiều Liên Xô.
Stalin còn "đặc biệt hào phóng tặng cho mình những lời ngợi ca về thiên tài quân sự, về tài cầm quân". "Stalin thích coi bộ phim "Năm 1919 bất diệt", trong đó ta thấy Stalin đứng trên bậc chiếc tàu hỏa bọc thép(14) và đánh tan quân thù với thanh đoản kiếm của mình". "Nói đến những sự kiện của cuộc cách mạng tháng Mười và thời nội chiến, người ta tạo ta cảm tưởng dường như Stalin đóng vai trò chính yếu, dường như bất kể lúc nào và ở đâu, Stalin luôn luôn nhắc Lênin phải làm gì và làm bằng cách nào. Thật là một sự mạ lị Lênin".
Khrusốp đặt câu hỏi: "Đã ở đâu và khi nào, người ta thấy một lãnh tụ tự tán tụng mình như thế chưa?" Khrusốp "quên" không đặt câu hỏi: tại sao ban lãnh đạo đảng Liên Xô - trong số đó có cả Khrusốp - và tại sao các lãnh tụ cộng sản trên thế giới đã xướng họa trong việc này? Không những đã xướng họa, họ còn thi nhau đưa Stalin lên đình cao của vinh dự! Chỉ cần đọc những tài liệu bằng tiếng Pháp của Môrítxơ Tôrê, Giắc Đuyclô, hay tiếng Việt của các ông Trường Chính, Tố Hữu, v.v...(15) trong thời Stalin cũng đủ biết tệ sùng bái Stalin đã tiến tới bậc nào. Hiện tượng sùng bái cá nhân không những chỉ xảy ra ở Liên Xô mà còn phát triển mạnh mẽ trong hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới.
Sùng bái cá nhân đã tạo ra "lũ người vu khống và mưu lợi thuộc đủ mọi hạng". Nó cũng tạo ra những Bêrya lớn nhỏ "đã dẫm lên không biết bao nhiêu xác chết để leo ngày một cao lên các bậc thang chính quyền".
Sùng bái cá nhân Stalin đã tạo ra nỗi khiếp sợ, kinh hoàng. Stalin "chỉ cần vẩy ngón tay út" là đối thủ không còn trên trần gian nữa. Người ta sợ Stalin đến nỗi một hôm, Bunganin bảo Khrusốp: "Đôi khi, ai đó được Stalin mời đến gặp mặt như một người bạn. Nhưng lúc đối diện với Stalin, anh ta không biết sau đó mình sẽ đi đâu: về nhà hay vào tù". Một sự khiếp đảm như thế đã khiến "các ủy viên Bộ Chính trị ở trong tình thế rất khó khăn".
Sự sùng bái cá nhân đã "tạo ra tổ chức hành chính tê liệt, dẫn đến những đường lối lệch lạc đủ thứ: che giấu thiếu sót, tô son điểm phấn sự thật. Trong dân chúng, có đầy rẫy những kẻ nịnh hót, bợ đỡ, chuyên nghề lừa phỉnh và đánh lạc hướng". Trong đảng có "nhiều đảng viên dè dặt trong công việc, trở nên quá thận trọng trong lời nói và việc làm, sợ mọi thứ đổi mới. Họ sợ ngay cả cái bóng của mình và kém hẳn sáng kiến trong công tác". "Ngay cả trong những cuộc hội thảo nhỏ, các cán bộ đảng cũng đọc những bài diễn văn viết sẵn", kết quả "đem lại hiểm họa: công tác đảng và xô-viết trở nên hình thức, toàn thể bộ máy tổ chức bị quan chế hóa".
Tới đây, ta thấy bản cáo trạng của Khrusốp không những vạch rõ vai trò tiêu cực và tội ác của Stalin, nó còn nêu ra thực trạng của xã hội Liên Xô. Â y là sự quan chế hóa toàn thể bộ máy đảng và nhà nước. Vô tình, Khrusốp đã đánh một đòn mạnh vào hệ thống quan liêu cộng sản, xây dựng trên căn bản "một đảng và đảng một khối", xây dựng trên quan niệm "chuyên chính một đảng" thay cho "chuyên chính vô sản", "tập trung quan liêu" thay cho "tập trung dân chủ". Vô tình, Khrusốp làm đảo lộn tất cả những truyền thống của các đảng cộng sản đã thấm nhuần chủ nghĩa Stalin trong ba mươi năm. Hình như cũng hiểu rõ tầm quan trọng và tác động tai hại của bán báo cáo, Khrusốp cố ý bào chữa cho Stalin bằng lập luận sau: "Trong mọi hành động, Stalin tuân thủ lợi ích của giai cấp công nhân, lợi ích của người lao động và của thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta không thể nói rằng những hành động của Stalin là hành động của kẻ chuyên quyền điên rồ. Stalin tin chắc đó là việc làm cần thiết cho quyền lợi của đảng, của quần chúng cần lao, để bảo vệ những thành quả của cách mạng. Bi kịch chính là ở chỗ đó!"
Những lời bào chữa nói trên có chỗ khó hiểu là Stalin đã bảo vệ quyền lợi nhân dân lao động bằng phương pháp đày ải và giết hại người lao động, bảo vệ chủ nghĩa cộng sản bằng phương pháp đày ải và giết hại những người cộng sản. Và Stalin đã áp dụng những biện pháp tàn ác ấy - không phải chỉ vài trường hợp lẻ loi mà trên một quy mô vĩ đại, chưa từng thấy trong lịch sử - đối với hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu người vô tội. Nói như Khrusốp, người ta có thể bảo vua chúa thời xưa giết hại nhân dân vì quyền lợi nhân dân, Hítle giết hại người Do Thái vì quyền lợi người Do Thái. Và Hítle không phải kẻ "chuyên quyền điên rồ" vì khi chết, buông hai bàn tay, cũng như Stalin, Hítle có gia tài quyền lợi riêng biệt gì của mình đâu? Một sự giải thích như thế hoàn toàn đi ngược lại học thuyết mác-xít. Vì trong lịch sử xã hội, chưa có một lãnh tụ hay một tổ chức nào đấu tranh bảo vệ một giai cấp bằng cách chống lại giai cấp đó. Sự thật, Stalin không bảo vệ quyền lợi giai cấp vô sản và cũng không bảo vệ quyền lợi chủ nghĩa cộng sản như Khrusốp nói. Stalin là sản phẩm của chế độ chính trị quan liêu, Stalin chỉ bảo vệ quyền lợi một tầng lớp nhất định: tầng lớp quan liêu cộng sản. Nhưng ta không thể đòi hỏi ở Khrusốp một sự diễn giải mác-xít như thế, vì Khrusốp là một thành viên trong đám quan liêu cộng sản.
Mặc dầu những lời báo chữa ấy của Khrusốp cho Stalin, các nhà lãnh đạo cộng sản các nước - khi được biết bản Báo cáo mật - nhận thấy đó là một biến cố quan trọng, có thể sẽ gây ra tai họa khôn lường. Họ hoang mang, hoảng hốt, tìm cách hạn chế mối họa, nhưng mỗi người hành động khác nhau. Có lãnh tụ như Tôgliátti của đảng cộng sản Y³, sau mấy ngày do dự, tuyên bố bản báo cáo có thực. Nhưng ông ta phê bình lời giải thích của Khrusốp, dựa trên nguyên nhân sùng bái cá nhân không phải là một sự "giải thích mác-xít". Trong bài phỏng vấn đăng trên tờ báo Nouavi Argomenti, Tôgliátti nêu ra câu hỏi về "sự suy đồi của giới quan liêu ở Liên Xô". Hai đảng cộng sản Anh và Mỹ công nhận sự tồn tại của bản báo cáo, nhưng yêu cầu một sự giải thích đầy đủ hơn. Tờ Daily Worker của đảng cộng sản Mỹ ngày 6-6-1956 đã trích đăng nhiều đoạn của bản báo cáo và phê bình ban lãnh đạo Liên Xô "mắc sai lầm" là không đem ra phát hành công khai. Hơn nữa, họ phê bình Khrusốp đã "quên không nhắc tới những tội ác của Stalin về việc thủ tiêu những người Do Thái ở Liên Xô." Ngày 18-6-1956, Ơgien Đơni, tổng bí thư đảng, đặt câu hỏi về "trách nhiệm chung của các nhà lãnh đạo ở Liên Xô" trong thời kỳ sùng bái cá nhân. Tại Pháp, tổng bí thư đảng cộng sản Môrixơ Tôrê chối cãi sự thật bằng mấy danh từ khôn khéo: "Bản báo cáo mà người ta bảo là của Khrusốp"(16).
Nhưng dần dần, năm này qua năm khác, hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới, trực tiếp hoặc gián tiếp, tiếp tục nhau công nhận sự tồn tại của bản báo cáo. Nhưng chưa một đảng nào đem ra ấn hành, phân phát cho đảng viên và mở cuộc thảo luận trong nội bộ. Mấy năm gần đây, nhiều sử gia và lãnh tụ cộng sản Pháp "tự phê bình" đảng mình đã không công nhận sớm bản báo cáo này, "gây nhiều tai hại cho sự phát triển của đảng". Hiện nay, chỉ còn mấy đảng như đảng cộng sản Anbani, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên là còn tiếp tục khước từ sự thật. Bởi lẽ rút dây động rừng, họ sợ hậu quả sẽ gây ra những tai họa như ở các nước Dân chủ Nhân dân Đông Âu.
Mặc dầu bản "Báo cáo mật" của Khrusốp chỉ nói về các vấn đề nội bộ Liên Xô; mặc dù nó không nói tới phong trào cộng sản các nước, không nói tới những sai lầm và tội ác của Stalin trong việc lãnh đạo Đệ tam Quốc tế trong vòng hai mươi năm; mặc dù nó không nói tới những nguyên nhân thất bại của các cuộc cách mạng Trung Hoa 1925-1927, cách mạng Tây Ban Nha 1936, v.v... và các cuộc thanh trừng đẫm máu trong các đảng cộng sản do Stalin và các bộ hạ gây ra - dầu thế, bản báo cáo này đã có một tác động mạnh mẽ, gây ra một loạt các biến động to lớn và quan trọng mà chính Khrusốp cũng không ngờ tới.
Năm 1956, khi bản báo cáo bị tiết lộ, dân chúng các nước Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc - trong đó có nhiều đảng viên cộng sản - kéo nhau xuống đường, đập phá các tượng đài, chân dung Stalin, đòi thả các nhà lãnh đạo và đảng viên cộng sản cùng các chính trị phạm bị bắt giam, đòi rửa án cho những người vô tội. Nhờ thế, các nhà lãnh đạo bị giết oan như Ragiơ Ladơlô, Kôstốp, Klêmăngti, v.v... được phục hồi danh dự. Những nhà lãnh đạo khác bị tù oan như Gômunka, A³ctua Lônđôn(17), v.v... được thả tự do. Cho tới nay, tác động của bản báo cáo Khrusốp vẫn chưa chấm dứt. Những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Tiệp Khắc (năm 1968) và Ba Lan (từ năm 1981 cho đến nay) không phải là điều tình cờ: nó bắt nguồn từ bản cáo trạng Stalin năm 1956.
Một câu hỏi được đặt ra: một nước được coi là có cuộc cách mạng vô sản, giai cấp tư sản không còn nữa, giới lao động đã nắm chính quyền, làm sao có thể xảy ra những vụ tàn sát khổng lồ như thế? Làm sao lại có những vụ vu oan giá họa, ăn gian nói dối, che giấu sự thật, thay đổi lịch sử như thế? Làm sao chính quyền lại lọt vào tay một cá nhân duy nhất và cá nhân này lại dựng nên một chế độ độc tài đẫm máu khủng khiếp như thế?
Câu trả lời đã được phong trào Đệ tứ Quốc tế đem ra trong vòng ba chục năm nay. Trái với các báo chí tư sản đổ tội cho chủ nghĩa cộng sản, Đệ tứ Quốc tế khẳng định: chính vì Liên Xô không theo chủ nghĩa cộng sản của Mác-Ăngghen nên mới xảy ra tình trạng như thế. Những ai tôn trọng sự thật đều phải công nhận Stalin không phải là người cộng sản, chủ nghĩa Stalin không phải là chủ nghĩa cộng sản. Những điều đã xảy ra ở Liên Xô đều ngược hẳn với mục đích nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản.
Sự đối lập của Trốtsky chống Stalin - trong vòng hai mươi năm, trên mọi lĩnh vực lý thuyết, chính trị, phương pháp hoạt động - đã đặt ra các vấn đề căn bản về tổ chức đảng, nhà nước, bài trừ nạn quan liêu, kiến thiết kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tệ sùng bái cá nhân chỉ là hậu quả chứ không phải nguyên nhân của một chế độ chính trị. Nguyên nhân phải tìm ở thực trạng xã hội Liên Xô.
Ơ Liên Xô, cuộc cách mạng vô sản tháng Mười đã bị biến chất do những điều kiện khách quan và chủ quan, quốc gia và quốc tế. Một tầng lớp quan liêu trong giai cấp vô sản, lợi dụng thoái trào của giai cấp vô sản Liên Xô và giai cấp vô sản thế giới, đã nhảy ra cướp đoạt chính quyền từ tay giai cấp vô sản. Tầng lớp này nhân danh giai cấp công nhân, kỳ thực, quyền lợi, địa vị, sinh hoạt của họ khác với công nhân. Họ chiếm giữ những đặc quyền chính trị và kinh tế trong các bộ máy đảng và nhà máy. Muốn bảo vệ những đặc quyền này, họ cần một chế độ quan liêu cảnh sát và cần tạo ra một vị chúa tể như Stalin, để rồi nấp bóng, ngăn cản các cuộc đấu tranh đòi dân chủ và quyền lợi của nhân dân và tiêu diệt các cuộc nổi dậy của nhân dân. Hàng vạn những bọn quan liêu lớn nhỏ đã tạo ra Stalin chứ không phải Stalin tự mình có thể tạo ra mình. Bêrya, người thừa hành của Stalin không phải là "gián điệp của ngoại quốc"(18) như Khrushốp nói, mà là sản phẩm của chế độ, cũng như Stalin. Ngoài Bêrya, còn có hàng trăm, hàng ngàn Bêrya lớn nhỏ ủng hộ Stalin, tiếp tay cho Stalin; nhờ thế, Stalin mới tạo lập được một chế độ chính trị quan liêu, độc tài, dã man như thế. Trong điều kiện đó, giai cấp vô sản ở Liên Xô, từ vai trò người chủ đã trở thành kẻ bị thống trị.
Nhưng tại sao Khrushốp - một tay quan liêu trong đám quan liêu - lại đứng ra hạ bệ Stalin? Muốn trả lời, chúng ta cần hiểu mâu thuẫn trong đám quan liêu. Quan liêu cộng sản là một tầng lớp, mặc dầu có chính quyền, nhưng không có một cơ sở xã hội, nghĩa là cơ sở giai cấp vững chắc và độc lập (ví dụ như giai cấp tư sản trong bộ máy sản xuất tư bản chẳng hạn). Đời sống của họ bấp bênh. Họ như một cây tầm gửi ăn bám vào giai cấp vô sản vì họ không có vị trí độc lập và vai trò lịch sử độc lập. Hôm nay họ giữ địa vị quan trọng, ngày mai có thể mất hết, nếu không bị thủ tiêu hoặc bị tù đày. Họ ước ao có một sự quân bình xã hội để hưởng thụ đặc quyền của họ. Nhưng, chế độ chính trị do họ dựng lên - chế độ quan liêu cộng sản - đồng thời đem lại đặc quyền đặc lợi cho họ, đồng thời luôn luôn đe dọa an ninh của họ. Họ đã tốn công vun xới cho sự sùng bái cá nhân Stalin. Nhưng ngược lại, càng được sùng bái, Stalin càng lộng quyền và dần dần vượt ngoài những giới hạn mà họ mong muốn. Khrushốp nói: "Khi Stalin bảo phải bắt người này hay kẻ nọ, không thể phản đối, ai nấy đều phải công nhận người đó là "kẻ thù của nhân dân" "
Một chính sách độc đoán như thế - độc đoán không những với nhân dân và giai cấp vô sản mà độc đoán cả với tầng lớp quan liêu cộng sản - đã tạo ra hiện trạng "xã hội bị tê liệt". Sự phát triển của mọi ngành hoạt động văn nghệ, kinh tế, xã hội, chính trị, v.v... bị cản trở nghiêm trọng, mặc dầu hạ tầng kiến trúc của Liên Xô có cơ sở để tạo lập nền móng cho chủ nghĩa xã hội. Khrushốp nói: "hệ thống lãnh đạo được áp dụng trong những năm cuối đời Stalin đã thành một trở ngại nghiêm trọng trên con đường phát triển của xã hội Liên Xô". Khrushốp cố ý dùng mấy chữ "trong những năm cuối đời Stalin"; đúng hơn, phải nói như Trốtsky: "Trong những năm dưới chính quyền Stalin..."
Tới một giai đoạn, đối với đẳng cấp quan liêu cộng sản, việc hạ bệ Stalin là một điều cần thiết. Không phải một mình Khrushốp mà đa số ủy viên Bộ Chính trị đã quyết định sự hạ bệ này. Nhưng khi mở nồi "xúp de", hơi lại phát ra quá mạnh, gây ra nhiều tai hại trên mọi lĩnh vực, quốc gia cũng như quốc tế. Cho nên, ban lãnh đạo quan liêu cộng sản Liên Xô cũng như các lãnh tụ các đảng cộng sản khác trên thế giới phải vội vàng đóng hơi lại. Ơ Liên Xô, người ta loại bỏ Khrushốp, đưa Brêgiơnép - một tay quan liêu cộng sản vô danh cho tới lúc đó - ra thay. Ơ Trung Quốc, Mao Trạch Đông vội vàng đình chỉ chính sách "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" và tống giam những người đã ủng hộ chính sách này. Ơ Việt Nam, sau khi phát động "sửa sai", đảng cộng sản mở cuộc truy nã những văn nghệ sĩ của nhóm Nhân văn Giai phẩm đòi tự do dân chủ và đòi đảng "sửa sai" thêm nữa. Nhiều người trong nhóm này bị ngồi tù; số khác, dưới áp lực của đảng, đứng ra "tự lừa dối mình và tố cáo những kẻ khác".
Vấn đề cần đặt ra là chế độ chính trị quan liêu cộng sản có thể tự nó cải tổ thành dân chủ vô sản thực sự được không? Kinh nghiệm cho thấy, nếu có sự cải tổ, chỉ là những cải tổ nhất thời, rồi đâu lại vào đấy. Bằng chứng là sau khi Khrushốp bị hạ bệ, ở Liên Xô người ta không nói gì đến cải tổ nữa. Mặc dầu những cuộc tàn sát đẫm máu, đại quy mô như thời Stalin không xảy ra nữa, mặc dầu những bất đồng chính kiến trong đảng không kết liễu bằng những vụ xử bắn và những nhà lãnh đạo như Khrushốp, Malenkốp, Môlôtốp, v.v..., tuy bị truất quyền, vẫn được sống hưởng tuổi già - nhưng, chế độ về cơ bản vẫn giữ tính chất quan liêu cộng sản, độc đoán như cũ. Những trại cấm cố được thay bằng bệnh viện tâm thần, chuyên giam hãm những người đối lập tư tưởng. Tin tức trong và ngoài nước vẫn bị kiểm soát, xuyên tạc, che giấu hoặc bịa đặt, khiến người dân Nga ít ham muốn nghe tin tức và đọc báo chí của đảng và chính phủ. Hiện tượng này cũng giống như ở các nước Dân chủ Nhân dân. Đặc biệt là ở Ba Lan, dầu chính phủ và đảng có nói sự thật thì dân chúng cũng không nghe nữa vì họ bị mắc lừa quá nhiều lần, do đó mà mất hẳn lòng tin. Các quyền tự do dân chủ vẫn bị cắt xén, chà đạp. Thậm chí, các văn nghệ sĩ mặc dầu không làm chính trị cũng bị cấm đoán, không được sáng tác theo cảm hứng của họ. Tệ sùng bái cá nhân không lộ liễu như trước, nhưng vẫn thịnh hành. Brêgiơnép - tổng bí thư đảng - không phải nhà binh cũng chẳng phải nhà văn, thế mà được phong nguyên soái và được tặng giải thưởng văn nghệ hạng nhất(19). Tóm lại, mặc dầu người ta đã đem xác ướp của Stalin từ lăng tẩm trên Hồng trường ra chôn bên chân tường điện Kremli để không ai thấy nữa, nhưng chủ nghĩa Stalin vẫn tồn tại trong đầu óc các nhà lãnh đạo Liên Xô.
Muốn có cải tổ thực sự ở Liên Xô cũng như ở nhiều nước do đảng cộng sản nắm giữ chính quyền, chỉ bài trừ tệ sùng bái cá nhân - như Khrushốp nói - không đủ. Sự cải tổ thực sự là phải đập tan bô máy chính trị quan liêu từ trên xuống dưới. Vấn đề là phải có một cuộc cách mạng chính trị, lật đổ chế độ chính trị độc tài quan liêu cộng sản, lật đổ chế độ "một đảng và đảng một khối", lật đổ các tổ chức bù nhìn, tái lập chính quyền dân chủ xô-viết như thời Lênin trên căn bản tự do lao động, tự do có khuynh hướng chính trị, tự do lập đảng và công đoàn độc lập với chính quyền. Vấn đề là phải giành lại chính quyền từ tay đám quan liêu cộng sản, giao phó cho các tổ chức dân chủ của giai cấp vô sản và quần chúng, từ dưới lên trên, bằng những cuộc bầu cử tự do, không phân biệt khuynh hướng, tổ chức, đảng phái, miễn là những khuynh hướng, tổ chức, đảng phái này tôn trọng hiến pháp xã hội chủ nghĩa.
Ta có thể tin ở các ban lãnh đạo hiện hữu của các đảng cộng sản sẽ làm ra một thay đổi như thế, được không? Dĩ nhiên là không! Chỉ cần nhìn thái độ của họ đối với các vụ biến động ở Hung, ở Tiệp và hiện nay ở Ba Lan là đủ. Đứng trước những yêu sách đòi "dân chủ" và "tự quản" của giai cấp vô sản, họ đã làm gì? Họ đã theo gương Stalin xuyên tạc sự thật, che giấu sự thật, tuyên truyền dối trá. Đối với những vụ nổi dậy của nhân dân ở Hung, ở Tiệp đòi tự do, độc lập, họ vu là "tư bản âm mưu phá hoại", "chủ trương lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa". Đối với mười triệu lao động Ba Lan trong Công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) đòi quyền tự do nghiệp đoàn, tự quyền quản lý, họ không ngần ngại dùng đảo chính quân sự, ngăn cấm, bắt bớ, cầm tù và bắn giết nhân dân và những người lãnh đạo nghiệp đoàn do nhân dân lao động bầu ra. Hơn thế nữa, họ đã phản bội chữ ký của họ trong bản Giao kết Gdansk ký với Công đoàn Đoàn kết. Ơ Ba Lan, sự thật là rành rành. Trong một nước có 12 triệu lao động, thì mười triệu đã đứng trong Công đoàn Đoàn kết, thử hỏi đảng cộng sản đại diện cho ai? Cho nhân dân lao động hay cho tầng lớp quan liêu cộng sản cướp đoạt chính quyền trên lưng nhân dân lao động?
Trong ba mươi năm, đẳng cấp quan liêu cộng sản ở Liên Xô và các đảng cộng sản thế giới đã triệt để ủng hộ Stalin. Các đảng cộng sản các nước đã noi gương Stalin thực hiện tại nước mình một chính sách và chế độ tương tự như ở Liên Xô. Những vụ án ngụy tạo ở Liên Xô đã tái diễn nhiều lần ở các nước Dân chủ Nhân dân. Ơ Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã bằng những cách khác nhau, hạ thủ Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, và biết bao cán bộ và đảng viên khác đã chết trong nhà ngục. Ơ Việt Nam chưa có hiện trạng thanh trừng đẫm máu như thế, nhưng nếu không biết sớm rút bài học của bản Báo cáo mật của Khrusốp, đảng cộng sản Việt Nam sẽ không tránh khỏi những vụ xâu xé lẫn nhau, kể cả những vụ đẫm máu. Trước thời chiến tranh với Pháp, đảng đã cho người tổ chức những vụ ám sát Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, v.v... là những người chỉ có cái tội là đảng viên trốt-kít. Từ đó đi tới chỗ thanh trừng nội bộ không xa.
Lịch sử phong trào công nhân cho tới thời Stalin, chưa bao giờ có những cuộc giết hại lẫn nhau vì sự bất đồng tư tưởng hoặc đảng phái. Thời Mác, thời Ăngghen, thời Lênin, đã có nhiều cuộc xung đột lý thuyết, chính trị(20) gay gắt giữa các khuynh hướng, giữa các trào lưu hay tổ chức. Nhưng có ai và có đoàn thể nào tổ chức những cuộc ám hại đối thủ của mình đâu?
Chỉ từ ngày Stalin lên nắm chính quyền ở Liên Xô, người ta mới thấy một hiện trạng quái gở như thế. Bắt đầu là cuộc tiêu diệt những thành phần, khuynh hướng tả hữu đối lập. Tiếp sau đi tới cuộc thanh trừng trong hàng ngũ nội bộ. Vì sao? Vì chính sách "một đảng và đảng một khối" tạo ra "độc tài đảng", độc tài đảng tạo ra "độc tài lãnh tụ". Bởi người ta chỉ công nhận có một chân lý: chân lý của đảng nghĩa là chân lý của một nhà lãnh đạo hay một số nhỏ nhà lãnh đạo. Những khuynh hướng hoặc tư tưởng ở ngoài đảng đều bị coi là phản động, cần phải tiêu diệt. Ngay như những khuynh hướng trong đảng mà không do lãnh tụ của đảng hay Bộ Chính trị đưa ra, đều bị coi là của giai cấp thù nghịch, cần phải tiêu diệt.
Người ta đi tới quan niệm hoàn toàn phản mác-xít là trong giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại một khuynh hướng chính trị là khuynh hướng của đảng và trong đảng cũng chỉ có thể tồn tại một khuynh hướng là khuynh hướng của lãnh tụ tối cao hay của Bộ Chính trị. Những khuynh hướng khác đều là giả tạo và tiêu biểu cho quyền lợi tư bản. Kết quả, đảng phải có nhiệm vụ nắm giữ độc quyền chính trị và ban lãnh đạo tối cao của đảng có sứ mệnh sử dụng độc quyền này.
Nhưng ban lãnh đạo này là ai? Có phải do đảng viên và nhân dân lao động chọn lọc, sau những cuộc thảo luận hoặc chống chọi sôi nổi, náo nhiệt như thời Lênin không? Không! Họ chỉ là một nhóm nhỏ người, đóng cửa kín, chọn lựa và loại bỏ nhau như triều thần ngày xưa, rồi đưa ra bảng cử (tiếng Ba Lan gọi là nomenclatura) đã xếp đặt sẵn. Quần chúng hay đảng viên chỉ có bổn phận chấp nhận, không có quyền đối lập hay bác bỏ, chưa nói tới quyền đề nghị một danh sách khác. Nếu có đảng viên nào bất đồng ý kiến, lá phiếu của những người này bị loại bỏ từ cấp chi bộ. Cho nên, mỗi khi có hội nghị hay hội họp quan trọng của đảng, người ta thấy hết thảy cử tri đều bỏ phiếu "đồng thanh" ưng thuận. Nhưng sau mỗi cuộc khủng hoảng nào đó của đảng hay trong những vụ tẩy trừ, đảng lại khám phá ra những lãnh tụ hay đảng viên "đối lập". Dĩ nhiên, những người này bị lên án là "giả dối" vì đã "khôn khéo che đậy bộ mặt thật của mình". Tùy theo tội nặng nhẹ, họ bị cảnh cáo hoặc bị khai trừ. Nhưng ngoài sự "giả dối" của họ, đảng viên và quần chúng tuyệt nhiên không hiểu rõ thái độ hay lập trường của họ ra sao?
Ban lãnh đạo và các nhà lãnh đạo cao cấp trở thành nhóm người "bất di bất dịch" đứng tại vị hàng chục năm. Có nhiều người già nua, hai chân đứng không vững như Mao Trạch Đông, Brêgiơnép mà vẫn còn nắm giữ chức vụ, trong lúc cần được thế hệ trẻ ra thay thế. Họ trở thành những người "bất khả xâm phạm". Trước mắt quần chúng, họ là "một khối như tượng đồng". Ngoài việc họ tự loại bỏ lẫn nhau, quần chúng không được đụng chạm đến họ. Phê bình lãnh tụ là chống đảng, chống đảng là chống chủ nghĩa xã hội. Lịch sử cho thấy ban lãnh đạo và các lãnh tụ tối cao của các đảng cộng sản sta-lin-nít - dầu vi phạm sai lầm đến đâu - chưa bao giờ bị thiểu số và chưa bao giờ bị lật đổ bằng lá phiếu trong một cuộc đại hội, để có thể thay thế họ bằng một ban lãnh đạo khác. Họ chỉ bị lật đổ khi nào quần chúng nổi dậy làm bạo động như ở Hung, ở Tiệp, ở Ba Lan chẳng hạn. Nhưng nếu những cuộc bạo động này chưa đủ sức mạnh trở thành một cuộc cách mạng chính trị, đảm quan liêu cộng sản cũ sẽ được thay thế bằng đám quan liêu mới. Chế độ quan liêu vẫn tiếp tục.
Chúng ta cần nhắc lại: sự tuyển lựa ban lãnh đạo và các cán bộ thời Lênin không như thế. Lúc Lênin sinh thời, các ủy viên Ban chấp hành trung ương hay Bộ Chính trị được lựa chọn trên căn bản lập trường chính trị công khai của mỗi người và trong nhiều trường hợp, trên căn bản khuynh hướng chính trị được công nhận trong đảng. Mỗi cuộc họp của Ban chấp hành trung ương, Bộ Chính trị hay Đại hội - trên những vấn đề quan trọng - đều có đa số, thiểu số; trong ban lãnh đạo, Lênin nhiều lần bị đứng về phe thiểu số(21).
Dưới thời Stalin, trừ mấy năm đầu Stalin chưa thủ tiêu được các khuynh hướng, những người đối lập được quyền phát biểu ý kiến. Nhưng hiện trạng này dần dần biến mất. Dần dần chỉ còn một khuynh hướng - khuynh hướng của Stalin - nắm giữ độc quyền. Người ta nói "thống nhất trong đảng", "nhất trí trong đảng", "đảng trở thành một khối vững chắc", nhưng tự do dân chủ trong đảng không còn nữa. Nguyên tắc "tập trung dân chủ" nhường chỗ cho "tập trung quan liêu", vì có tập trung, nhưng không có dân chủ. Tập trung quyền hành trong tay một nhóm nhỏ người, nhưng không có dân chủ trong hàng ngũ đảng. Quan niệm "một đảng và đảng một khối" đó đã được noi gương, áp dụng và phổ biến trong hầu hết các đảng cộng sản sta-lin-nít trên thế giới. Quan niệm này tạo ra ý nghĩ coi ban lãnh đạo đảng không bao giờ có thể sai lầm; nếu có sai lầm là do quần chúng đảng viên cấp dưới không biết chấp hành đường lối đúng đắn của đảng. Muốn chứng tỏ đảng không bao giờ sai lầm, người ta đã tuyên truyền che giấu sự thật, lừa dối dư luận, vu khống, xuyên tạc, sửa đổi lịch sử.
Không phải là điều tình cờ, sau 26 năm, một văn kiện quan trọng như Báo cáo mật của Khrusốp về Stalin đã bị bưng bít trước giai cấp vô sản. Khrusốp nói (và các lãnh tụ cộng sản các nước đều công nhận): "Không được giặt áo bẩn trước mắt kẻ thù" (tư bản). Nhưng kẻ thù không ai lạ. Riêng chỉ có giai cấp vô sản, tranh đấu chống tư bản, vẫn bị che giấu sự thật. Chỉ ngày nào những ban lãnh đạo các đảng cộng sản các nước đem ra phát hành bản báo cáo của Khrusốp, thẳng thắn phê bình và tự phê bình, rút bài học kinh nghiệm để tránh những tai họa như ở Liên Xô, ngày ấy ta mới có thể nói họ đã đoạn tuyệt với Stalin và chủ nghĩa Stalin. Chúng ta có thể khẳng định: không một nước nào, không một đảng cộng sản nào có thể tranh đấu vì chủ nghĩa xã hội mà không biết đứng ra lên án Stalin và chủ nghĩa Stalin. Im lặng tức là đồng phạm và tạo lợi khí cho tư bản mở cuộc tấn công chống chủ nghĩa cộng sản.
Mặc dầu sự thật bị các đảng cộng sản che giấu, vai trò của Stalin trong lịch sử dần dần đã được phơi ra ánh sáng. Đối với chủ nghĩa cộng sản, Stalin là người mang tội "bài cộng" nặng nhất, vì đã gây nên tai hại khôn lường cho chủ nghĩa này. Trong dư luận phương Tây hiện nay, hễ có ai dùng những phương pháp chính trị tàn bạo, độc đoán, vu cáo, xuyên tạc, trà trộn đổi trắng thay đen, là người ta tặng ngay cho cái danh hiệu "sta-lin-nít". Mấy chữ "sta-lin-nít" trước đây là một vinh dự cho những ai mang nó(22), ngày nay không một ai trong các đảng cộng sản ở Âu châu muốn mang nó nữa. Trong lúc ấy, các báo chí tư sản thi nhau lợi dụng tuyên truyền, bảo rằng chủ nghĩa cộng sản đã tạo ra một người như Stalin.
Vì muốn bảo vệ chủ nghĩa cộng sản theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin, vì muốn đối phó một cách hiệu quả trước các cuộc tấn công lý thuyết của chủ nghĩa tư bản, vì muốn đấu tranh cho sự thực hiện chủ nghĩa xã hội thực sự ở Việt Nam và trên thế giới, từ lâu chúng tôi đã có dự định dịch và in cuốn sách này. Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, một phần vì thiếu điều kiện kỹ thuật và tài chính, một phần vì phải tùy theo sức mình, tham gia cuộc đấu tranh chính trị chống đế quốc ngoại xâm, dự định của chúng tôi bị hoãn lại. Tới nay, sau 26 năm, nó mới có cơ hội được thực hiện.
"Sự thật là cách mạng". Đó là phương châm của người cộng sản. Chúng tôi mong cống hiến các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam và giai cấp vô sản Việt Nam cùng bạn đọc một tài liệu lịch sử để rút bài học cho sự nghiệp tranh đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hà Cương Nghị
Paris 1 tháng 10 năm 1982
Tái bút: Sau khi bài này viết xong và đã lên khuôn ở nhà in, chúng tôi được biết Nhà xuất bản Editions Sociales của đảng cộng sản Pháp (P.C.F.) vừa ấn hành một cuốn sách nhan đề 1956, cú sốc do Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Liên Xô(23).
Do sử gia Roger Martelli - đảng viên đảng cộng sản Pháp - biên soạn và giới thiệu, cuốn sách này dịch nguyên văn toàn bộ Báo cáo mật của Khrushốp về Stalin, kèm theo nhiều tài liệu về thái độ các đảng cộng sản trên thế giới (Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Y , Ba Lan, v.v...) trong giai đoạn 1956.
Đây là lần đầu tiên, một đảng cộng sản đã dịch và phát hành công khai Báo cáo mật của Khrushốp về Stalin (đảng cộng sản Liên Xô vẫn giấu kín trong nước). Tuy nhiên, người ta nhận thấy đảng cộng sản Pháp chỉ nhắm độc giả trí thức là những người, dầu sao, cũng đã được biết sự thật. Đảng vẫn không phân phát trong nội bộ đảng, không mở thảo luận để rút ra bài học lịch sử.
Chúng ta cần nhắc lại, ròng rã trong hai mươi năm, đảng cộng sản Pháp vẫn khước từ sự thật bằng mấy danh từ "bản báo cáo mà người ta bảo là của Khrushốp". Tới năm 1976, trong Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Pháp (tháng 2-1976), đảng mới tự phê bình "đã có sự chậm trễ trong việc công nhận sự thật". Năm 1977, với sự đồng ý của Bộ Chính trị, Georges Cogniot và Pierre Doize đã vén lên một góc của bức màn bí mật. Phải đợi tới 1982, đảng cộng sản Pháp mới buộc phải vén hết bức màn che đậy. Chúng tôi sẽ có dịp bình luận đầy đủ hơn.
Chỉ cần nói sự thật lịch sử, dầu ai tài mấy, cũng không thể giấu nổi. Cũng như Trốtsky nói, "dưới sức nặng những tội ác của y, Stalin sẽ biến mất trên sân khấu, với tư cách kẻ đào mồ chôn vùi cách mạng và có bộ mặt ghê tởm nhất trong lịch sử".
Chú thích:
(1)- Đại diện các đoàn đại biểu cộng sản được triệu tập tới điện Kremli, mỗi người được phát một bản sao văn kiện, nhưng sau khi đọc xong phải trả lại cho Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Liên Xô. Ngay ngày hôm sau, nhiều báo chí các nước không cộng sản đã đăng tải và bình luận những nhận định chính của bản báo cáo "mật" này. (Xin xem cuốn Tiểu sử chính trị của Khushốp của sử gia Liên Xô R. Métvêđép)
(2)- Theo lời Khrushốp viết trong Hồi ký thì một thành viên ban lãnh đạo Ba Lan tên là Dambrốpsky đã tiết lộ bản báo cáo trong đảng cộng sản Ba Lan.
(3)- Nhiều sử gia đứng đắn ước lượng số nạn nhân của Stalin lên đến mười triệu trong vòng ba mươi năm.
(4)- Y³ Khrushốp muốn nói đại tướng Giukốp đã bị truất chức.
(5)- Xin xem bài Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu trong phần Phụ lục.
(6)- Xin xem cuốn Le Zéro et L Infini (nguyên bản Anh ngữ: Darkness at Noon) của văn hào Arthur Koestler.
(7)- Theo báo cáo của Khrushốp thì Kirốp bị Stalin thủ tiêu, nhưng theo những tiết lộ mới nhất rút ra từ thư khố của KGB thì trường hợp này dường như không phải như vậy - Kirốp thiệt mạng trong một vụ xung đột tình ái. Tuy nhiên ý muốn thường xuyên loại trừ các đối thủ là rõ ràng trong suốt cuộc đời Stalin.
(8)- Tức Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô.
(9)- Ba mươi năm sau, ở Campuchia, Pôn Pốt đã theo gương Stalin thực hiện chính sách cưỡng bức di chuyển dân sự và diệt chủng.
(10)- Xin xem bản dịch nguyên văn tài liệu này ở phần Phụ lục.
(11)- Trong cuốn Những chặng đường lịch sử, đại tướng Võ Nguyên Giáp coi đây là tài liệu cơ bản huyến luyện của đảng cộng sản Việt Nam.
(12)- Cuốn sách này đã được viết lại, nhưng vẫn còn nhiều đoạn sai lầm và xuyên tạc. Xin xem tạp chí Nghiên cứu số 6, tháng 6-98 do Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp xuất bản.
(13)- Nhiều sử gia đứng đắn - khi viết về cách mạng tháng Mười Nga - đều coi Lênin và Trốtsky là hai nhà lãnh đạo quan trọng nhất.
(14)- Chíếc xe lửa này là một sự kiện lịch sử. Nhưng người ở trên xe không phải là Stalin mà là Trốtsky và Bộ Tham mưu Hồng quân trong cuộc nội chiến.
(15)- Về sự tán dương Stalin, nhà thơ Nêruđa đã tự phê bình. Nhưng các thi sĩ khác như Aragông và Tố Hữu, cho tới nay vẫn chưa tự chỉ trích.
(16)- Le rapport attribué à Krouchtchev.
(17)- Xin xem cuốn L Aveu của Arthur London.
(18)- Khrushốp đã dùng phương pháp vu cáo như Stalin để loại trừ Bêrya.
(19)- Brêgiơnép 4 (bốn!) lần được tấn phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô, tất cả đều trong thời bình! Ngoài ra, Brêgiơnép còn được Giải thưởng Lênin cho mấy cuốn sách mang tính bịa đặt lịch sử, dĩ nhiên không do ông ta viết.
(20)- Mác chống Bakunin, Lênin chống Kaostky, Plêkhanốp, v.v...
(21)- Gần đây, các sử gia Nga đã sưu tầm và in lại những biên bản này.
(22)- Tổng bí thư đảng cộng sản Pháp Môrixơ Tôrê nói: "Tôi được vinh dự mang danh hiệu xta-lin-nít".
(23)- 956, Le Choc du Xxème Congrès du P.C.U.S. (Nhà xuất bản Editions Sociales phát hành ở Paris, 464 trang, giá 45 francs).
-----------------------
1. Lênin nói về Stalin.
Bên cạnh những công lao to lớn cống hiến cho thắng lợi của giai cấp công nhân, của quần chúng lao động, của đảng và sự áp dụng tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học trong thực tiễn, trí tuệ sáng suốt của Lênin còn thể hiện ở chỗ đồng chí đã để ý kịp thời nhiều đặc điểm tiêu cực của Stalin, là cái sau này đã mang lại những hậu quả rất tồi tệ.
Lo ngại cho tương lai của đảng và nhà nước xô-viết, Vlađimia Ilích Lênin đã phân tích hoàn toàn đúng đắn về nhân cách của Stalin. Đồng thời, đồng chí nhắc nhở cần loại bỏ Stalin khỏi chức vụ tổng bí thư. Theo nhận định của Lênin, Stalin là con người quá thô lỗ, đối xử không thỏa đáng với các đồng chí, có tính nết thất thường và lạm dụng quyền hành.
Tháng 12-1922, Vlađimia Ilích viết trong bức thư gửi Đại hội đảng,:
Đồng chí Stalin, từ khi trở thành tổng bí thư đảng, đã thâu tóm vào tay mình một quyền hành vô hạn mà tôi không dám chắc đồng chí ấy sẽ luôn biết sử dụng một cách có chừng mực.
Bức thư đó - một tài liệu chính trị hết sức quan trọng, được biết đến trong lịch sử đảng dưới cái tên Di chúc chính trị của Lênin(1) - đã được phát cho các đại biểu của Đại hội lần thứ XX này. Chắc chắn các đồng chí đã đọc nó nhiều lần và sẽ còn đọc đi đọc lại nhiều lần nữa. Đề nghị các đồng chí hãy chú ý đến những lo âu của Vlađimia Ilích về tương lai của đảng, của nhân dân, của nhà nước và của sự lãnh đạo đảng sau này.
Vlađimia Ilích nói:
Stalin là người có tính thô lỗ thái quá và nhược điểm này - hoàn toàn có thể chịu đựng được giữa chúng ta với nhau và trong quan hệ giữa những người cộng sản - không thể chấp nhận được trong cương vị tổng bí thư đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí hãy suy nghĩ về việc thuyên chuyển Stalin ra khỏi trọng trách ấy. Hãy đề cử vào vị trí của Stalin một đồng chí khác, có tính nết tốt hơn so với Stalin: kiên nhẫn hơn, trung thực hơn, lịch sự hơn và chu đáo hơn đối với các đồng chí, ít thất thường hơn v.v...
Các đại biểu Đại hội lần thứ XIII đã được biết tài liệu do Lênin để lại trên đây(2 )và khi đó, họ đã thảo luận về vấn đề truất Stalin khỏi chức vụ tổng bí thư. Tuy nhiên, các đại biểu đã quyết định duy trì Stalin ở cương vị ấy, hy vọng Stalin sẽ chú trọng đến những nhận xét mang tính phê bình của Vlađimia Ilích và sẽ biết sửa đổi những tính xấu đã khiến Lênin lo ngại.
Thưa các đồng chí,
Đại hội cần biết hai tài liệu mới, chứng tỏ bản tính của Stalin mà Lênin đã vạch rõ trong Di chúc chính trị của đồng chí. Đó là bức thư của Krúpskaia gửi cho Kamênép(3) - lúc ấy đứng đầu Bộ Chính trị - và thư riêng của Lênin gửi Stalin.
Bây giờ, tôi xin đọc cho các đồng chí nghe các tài liệu nói trên.
Thư của Krúpskaia:
Lép Bôrisôvích,
Vì một lá thư ngắn(4) mà bác sĩ đã cho phép Vlađimia Ilích đọc cho tôi chép, ngày hôm qua Stalin đã nổi cơn thịnh nộ thô bạo nhất đối với tôi. Đã khá lâu rồi tôi là thành viên của đảng. Nhưng trong suốt ba mươi năm ấy, tôi chưa hề nghe một đồng chí nào nói một câu thô lỗ với tôi. Tôi mang trong tim mình những lợi ích của đảng và của Ilích, ít nhất cũng như Stalin. Lúc này, tôi cần tự chủ cực độ. Điều gì cần phải làm, điều gì có thể hay không thể đưa ra bàn luận với Lênin, tôi là người hiểu rõ hơn mọi bác sĩ. Bởi tôi biết điều gì có thể hay không thể gây ra sự bực dọc cho Lênin. Chí ít, tôi cũng biết điều đó hơn Stalin.
Tôi viết thư này cho đồng chí và đồng chí Grêgôri (Dinôviép) (1 )- là những bạn hữu gần gũi nhất của Ilích - và tôi yêu cầu hai đồng chí bảo vệ tôi chống lại sự can thiệp thô bạo vào đời tư của tôi, chống lại những cuộc cãi cọ không đáng có và những lời hăm dọa hèn hạ. Tôi không nghi ngờ chút nào về việc U y ban Kiểm tra - mà Stalin đã mang nó ra để dọa tôi - sẽ đưa ra quyết định thống nhất để bảo vệ tôi. Nhưng tôi không đủ sức và cũng không đủ thì giờ cho những trò kiện cáo ngu xuẩn này. Tôi cũng là người và thần kinh của tôi đã căng thẳng đến tột độ.
N. Krúpskaia
Krúpskaia viết bức thư này ngày 23-12-1922. Hai tháng rưỡi sau, ngày 5-3-1923, Lênin viết cho Stalin bức thư sau, và sao lục hai bản gửi Dinôviép và Kamênép:
Đồng chí Stalin thân mến,
Đồng chí đã tự cho phép mình gọi dây nói cho vợ tôi và mắng mỏ vợ tôi một cách thô bỉ. Mặc dầu vợ tôi đã nói với đồng chí là sẽ bỏ qua những điều đồng chí nói, tuy nhiên, qua vợ tôi, hai đồng chí Dinôviép và Kamênép đã biết chuyện này. Tôi không thể dễ dàng quên được việc đó và chẳng cần nói, đồng chí cũng hiểu rằng những gì chống lại vợ tôi, tôi cũng coi như chống lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu đồng chí suy nghĩ kỹ xem đồng chí có sẵn sàng rút lại những lời đã nói và xin lỗi vợ tôi, hay là chúng ta đoạn tuyệt mọi quan hệ.
Thân ái
Lênin (6)
(Cả phòng họp kinh ngạc)
Thưa các đồng chí,
Bây giờ, tôi xin miễn bình luận những tài liệu nói trên. Tự nó nói lên tất cả. Nếu từ lúc sinh thời Lênin, Stalin đã có thể cư xử như thế, nhất là cư xử như thế đối với Krúpskaia - người mà đảng ta ai cũng biết và kính trọng như người vợ chung thủy của Lênin, người chiến sĩ tích cực đấu tranh cho sự nghiệp từ ngày đảng thành lập -, có thể hình dung Stalin cư xử ra sao với những người khác. Đặc tính tiêu cực ấy của Stalin ngày càng mạnh lên và tới độ không thể dung thứ nổi trong những năm cuối đời đồng chí ấy.
Những biến cố sau này đã chứng tỏ những lo ngại của Lênin là có cơ sở. Trong giai đoạn đầu sau khi Lênin qua đời, Stalin còn chú trọng đến những lời khuyên bảo của Lênin, nhưng về sau, đồng chí ấy ngày càng không đếm xỉa tới những cảnh cáo của Lênin.
Khi chúng ta phân tích hoạt động của Stalin trong việc lãnh đạo đảng và đất nước, khi chúng ta suy nghẫm về những việc Stalin đã vi phạm, bất giác chúng ta nhận thấy những lo ngại của Lênin là đúng đắn. Các nét tiêu cực của Stalin - chỉ mới chớm nở hồi sinh thời Lênin - vào những năm về sau đã trở thành sự lạm dụng nghiêm trọng quyền hành tập trung trong tay Stalin và gây tác hại khôn lường cho đảng ta.
Chúng ta cần xem xét nghiêm chỉnh và phân tích kỹ lưỡng vấn đề này, hầu ngăn cản việc tái diễn những việc đã xảy ra như dưới thời Stalin, dưới bất kể hình thức nào. Stalin tuyệt đối không chấp nhận tính tập thể trong lãnh đạo và công việc, và đã dùng bạo lực không những đối với mọi thứ trái ý mình mà - do tính thất thường và độc đoán của đồng chí ấy - còn đối với tất cả những gì bị đồng chí ấy coi là không hợp với quan niệm của mình.
Đối với mọi người, Stalin không dùng phương pháp thuyết phục bằng lý luận và sự hợp tác kiên nhẫn. Stalin bắt buộc kẻ khác phải theo ý định của mình và đòi họ phải phục tùng mình một cách vô điều kiện. Ai dám cưỡng lại và tìm cách chứng tỏ rằng mình đúng, kẻ đó phải rời hàng ngũ lãnh đạo và sau đó sẽ bị tiêu diệt về tinh thần và thể xác. Điều này đã xảy ra sau Đại hội thứ XVII của đảng, khi rất nhiều lãnh tụ xuất sắc của đảng và các đảng viên nòng cốt - biết bao chiến sĩ trung thực và ngay thẳng của sự nghiệp cộng sản - đã là nạn nhân của sự bạo ngược của Stalin.
Chúng ta đều biết đảng đã phải đấu tranh quyết liệt chống bọn trốt-kít, bọn hữu khuynh và bọn quốc gia tư sản và bằng cuộc đấu tranh đó, đảng đã đánh bại về mặt tư tưởng mọi kẻ thù của chủ nghĩa Lênin. Cuộc tranh đấu tư tưởng này đã thành công, nhờ đó đảng được củng cố và vững vàng thêm. Trong cuộc tranh đấu ấy, Stalin đã có một vai trò tích cực.
Đảng đã tiến hành cuộc tranh đấu chính trị lớn lao chống lại những đảng viên tuyên truyền các tư tưởng phi lê-nin-nít, và theo đường lối chống lại đảng và phản lại chủ nghĩa xã hội trong nội bộ đảng. Thật là một cuộc tranh đấu bền bỉ và khó khăn, nhưng cần thiết, bởi lập trường chính trị của bọn Trốtsky(7) - Dinôviép cũng như bọn Bukharin(8), về cơ bản là con đường đi tới chỗ tái lập chủ nghĩa tư bản và đầu hàng tư bản quốc tế(9). Chúng ta thử tưởng tượng hồi 1928-1929, nếu chính sách của bọn hữu khuynh - chủ trương thuyết "chủ nghĩa xã hội tiến nhịp bước con rùa", hướng về bọn phú nông (cu-lắc)(10), v.v... - mà thắng thế thì kết quả sẽ ra sao? Ngày nay, chúng ta làm gì có được nền công nghiệp nặng đồ sộ, làm gì có được các hợp tác xã, chúng ta sẽ yếu thế và bị giải giáp giữa môi trường tư bản chủ nghĩa.
Vì thế, đảng đã vận động một cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt, vì thế, đảng đã cố gắng giải thích cho mọi đảng viên và quần chúng ngoài đảng biết tầm nguy hại của những tàn dư phi lê-nin-nít của phe đối lập trốt-kít và bọn cơ hội hữu khuynh. Và công cuộc to lớn làm sáng tỏ đường lối của đảng đã đem lại thành quả tốt đẹp: cả bọn trốt-kít, cả lũ cơ hội hữu khuynh bị cô lập về chính trị; đại đa số đảng viên ủng hộ lập trường lê-nin-nít, và đảng đã thành công trong việc thúc đẩy và tổ chức quần chúng lao động thực hiện đường lối lê-nin-nít của đảng và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhưng chúng ta không được phép quên rằng ngay trong thời kỳ đảng mở cuộc đấu tranh tư tưởng mãnh liệt chống bọn Trốtsky, bọn Dinôviép, bọn Bukharin và bè phái, đảng không áp dụng biện pháp đàn áp đối với họ. Cuộc đấu tranh diễn ra trên địa hạt tư tưởng. Nhưng vài năm sau, khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng căn bản trong nước, khi các giai cấp bóc lột đã bị thủ tiêu về cơ bản, khi cơ cấu xã hội Liên Xô đã thay đổi tận gốc rễ, khi không còn cơ sở xã hội cho sự ra đời của những đảng, những phong trào chính trị phản động, khi những kẻ thù tư tưởng của đảng đã bị đánh bại về chính trị từ nhiều năm về trước - khi ấy, những cuộc khủng bố lại khởi đầu chống họ.
Chính trong giai đoạn này (1936-1937-1938), sự đàn áp hàng loạt đã nảy sinh với sự giúp đỡ của bộ máy nhà nước. Thoạt tiên, người ta dùng biện pháp ấy để chống kẻ thù của chủ nghĩa Lênin: bọn Trốtsky, bọn Dinôviép, bọn Bukharin, những kẻ đã bị đảng đánh bại về mặt chính trị từ lâu; sau là để đàn áp nhiều chiến sĩ cộng sản chân chính, những cán bộ đảng từng mang trên vai gánh nặng của cuộc nội chiến, của những năm đầu khó khăn nhất trong thời kỳ công nghiệp hóa, công hữu hóa. Đây là những người đã tranh đấu tích cực chống bọn Trốtsky và bọn hữu khuynh để bảo vệ đường lối lê-nin-nít của đảng.
Chú thích :
1- Sau khi đọc cho thư ký viết bức thư này, Lênin cho hủy bản chính và trao hai bản sao đã niêm phong (với dấu "Tối mật") cho Krúpskaia và Ban Bí thư, ông dặn chỉ được mở và đọc trong Đại hội đảng sau khi ông qua đời. Vì thế, bức thư trên còn mang tên Thư gửi Đại hội.
2- Thư gửi Đại hội được đọc trong hội nghị ngày 22-5-1924 của Ban chấp hành Trung ương. Một quyết định được thông qua: không thảo luận bản Di chúc chính trị của Lênin trong Đại hội lần thứ XIII và không công bố trước dân chúng. Bản Di chúc này được Mắc Istman (Max Eastman) - một đảng viên cộng sản Mỹ - đăng tải công khai lần đầu tiên trên tờ New York Times ngày 18-10-1926.
3- Lép B. Kamênép (1883-1936): đảng viên từ năm 1901, chủ tịch xô-viết Moskva, phó chủ tịch Hội đồng Dân ủy và ủy viên Bộ Chính trị thời kỳ 1919-1926. Bị bắt sau vụ ám sát Kirốp, bị tù đày và tử hình với lời buộc tội "hoạt động khủng bố".
4- Lá thư Lênin gửi Trốtsky ngày 21-12-1922, chúc mừng Trốtsky đã đấu tranh thắng lợi khiến Ban chấp hành Trung ương thông qua quyết định nhà nước phải nắm trong tay độc quyền ngoại thương:
Dường như đồng chí chiếm được các cứ điểm mà không tốn một phát súng nào. Đề nghị đồng chí đừng dừng lại, chúng ta hãy tiếp tục tấn công.
5- Grêgôri I. Dinôviép (1883-1936): vào đảng năm 1901, đảng viên bônsêvích năm 1903, là học trò và cộng sự gần gũi nhất của Lênin. Chủ tịch xô-viết Pêtrôgrát sau cách mạng tháng Mười, ủy viên Bộ Chính trị, chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế cộng sản (Đệ tam). Bị bắt và tử hình cùng Kamênép trong "vụ án Moskva" năm 1936.
6- Bức thư này đã được Lép Trốtsky đăng trong cuốn hồi ký Đời tôi. Đảng cộng sản Liên Xô và tất cả các đảng cộng sản trên thế giới vẫn giấu giếm trước dư luận. Đây là lần đầu tiên đảng cộng sản Liên Xô công bố trước Đại hội đảng.
Ngày 7-3-1923, Stalin trả lời Lênin với giọng điệu khá ngang bướng; lá thư này mới được công bố cách đây ít lâu. Cũng trong ngày hôm đó, Lênin bị chảy máu não lần thứ hai, ông bị cấm khẩu và liệt toàn thân.
7- Lép D. (Brônstên) Trốtsky (1879-1940): vào đảng Xã hội Dân chủ Nga năm 1897, bị tù và đày ải nhiều lần dưới thời Nga hoàng, chủ tịch xô-viết Pêtrôgrát trong cách mạng 1905 và cách mạng tháng Mười 1917, đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Mười. Sau năm 1917, giữa các trọng trách Dân ủy Ngoại vụ, Dân ủy Quốc phòng và Hải quân, chủ tịch Hội đồng Quân sự Cách mạng, ủy viên Bộ Chính trị; sáng lập và lãnh đạo Hồng quân trong cuộc nội chiến. Sau khi Lênin mất, Trốtsky là người đứng đầu các nhóm đối lập ở Liên Xô, bị Stalin khai trừ khỏi đảng năm 1926, đày đi Anma-Ata năm 1928 và trục xuất khỏi Liên Xô năm 1929. Trốtsky thành lập Đệ tứ Quốc tế vào nửa cuối thập niên 30, bị Stalin phái người tới tận Mêhicô để ám sát ông vào năm 1940.
8- Nikôlai I. Bukharin (1888-1938): ủy viên thành ủy Mạc Tư Khoa từ năm 1908, thành viên Ban chấp hành Trung ương từ hè năm 1917, ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1929, chủ tịch Quốc tế cộng sản (Đệ tam) thời kỳ 1926-1929. Bị bắt năm 1937 và tử hình vì tội "gián điệp" trong vụ án Bukharin năm 1938.
9- Đây là một sự vu khống theo kiểu xta-lin-nít. Các sử gia đứng đắn, tôn trọng sự thật đều biết sau khi cách mạng tháng Mười thành công, Lép Trốtsky là người đầu tiên trong đảng đề ra khẩu hiệu Công nghiệp hóa và Công hữu hóa. Thoạt đầu, Stalin và Bukharin chống lại chủ trương ấy. Sau này, khi đã loại bỏ Bukharin, Stalin đem những khẩu hiệu của Trốtsky ra áp dụng, nhưng vẫn tiếp tục vu khống Trốtsky.
10- Tầng lớp phú nông có ruộng đất ở Nga.
Các
trang liên quan:
|
Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2014
N. S. Khrushốp - Báo cáo mật tại Đại hội XX đảng CS Liên Xô ( Phần 1)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét