Bà
huyện Thanh Quan
Tiểu sử tác giả
Bà huyện Thanh Quan là một nữ sĩ thời
Nguyễn. Tiểu sử của bà không được đầy đủ lắm. Người ta chỉ biết bà là ái nữ của
một vị danh Nho, sinh quán tại làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương (nay là Hoàn
Long, tỉnh Hà Đông). Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, tự là Lưu Nguyên Uẩn,
người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân khoa Tân Tỵ,
năm Minh Mạng thứ hai, được bổ làm tri huyện Thanh Quan. Do đó nữ sĩ được gọi
là Bà huyện Thanh Quan hay Bà Thanh Quan. Trong Nam thi hợp tuyển của Ôn Như
Nguyễn Văn Ngọc có đề cập về chồng của nữ sĩ như sau: "Chồng bà là ông Lưu
Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ
nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can án phải cách, bổ
làm Bát phẩm thơ lại Bộ hình. Sau lại thăng lên chức Viên ngoại lang".
Bà huyện Thanh Quan rất say mê cái thú văn
chương và xem đó là một thú tiêu khiển thanh tao nhất. Trong câu đối dán trong
dịp Tết, bà đã hạ bút:
Duyên
với văn chương nên dán chữ
Nợ
gì trời đất phải trồng nêu
Nói về bà, có nhiều giai thoại rất lý thú.
Nhân một hôm ông huyện đi vắng, có một người đàn bà còn trẻ, tên là Nguyễn Thị
Đào đến kiện người chồng phụ bạc, phế bỏ việc gia đình, hắt hủi vợ nhà, và yêu
cầu quan trên cho mình được ly dị với chồng. Nhận thấy nội dung lá đơn lời lẽ
rất cảm động, thương cho người thiếu phụ chịu lỡ dở cuộc duyên tình phí bỏ cả
ngày xanh trong cảnh cô đơn, bà Huyện liền quên cả luật pháp, phê vào lá đơn
của Nguyễn Thị Đào bốn câu thơ:
Phó
cho con Nguyễn Thị Đào
Nước
trong leo lẻo, cắm sào đợi ai
Chữ
rằng: Xuân bất tái lai
Cho
về kiếm chút, chẳng mai nữa già
Do việc làm của bà mà ông Huyện bị quan
trên quở trách. Nhưng cách đó chẳng lâu, ông lại được thăng chức và thuyên
chuyển về Bộ hình làm chức lang trung. Nhờ có tài văn chương lỗi lạc, Bà huyện
Thanh Quan được vua Tự Đức vời vào cung và phong chức Cung trung Giáo tập để
dạy cho các cung nhân học. Trọng tài học của bà, vua Tự Đức có ban cho bà được
đề thơ vào một cái chén cổ, có bức hoạ sơn thuỷ. Bà đã ứng khẩu đọc hai câu:
In
như thảo mộc trời Nam
lại
Đem
cả sơn hà đất Bắc sang
Vua Tự Đức vốn thích văn chương nên thường
làm thơ cho bà hoạ lại, bà hoạ rất tài nên được vua rất quý trọng. Về những tác
phẩm bằng chữ Nôm của Bà huyện Thanh Quan, hiện nay chỉ còn lại những bài thơ
thất ngôn: Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Đền Trấn Võ, Qua đèo Ngang, Cảnh
thu, Nhớ nhà, Cảnh chiều hôm,...
Phần quan trọng trong thơ văn của Bà huyện
Thanh Quan là phần hoài cổ, tiếc thương quá khứ vàng son của tiền triều. Sinh
trưởng vào thời Lê mạt và Nguyễn Sơ, bà đã chứng kiến bao cảnh thay ngôi đổi
vị, chiến tranh tang thương. Cái ươn hèn của con cháu Hậu Lê, vua Lê Chiêu
Thống toan "rước voi về dày mả tổ",... Bà huyện Thanh Quan, cũng như
thi hào Nguyễn Du, muốn dùng văn thơ để diễn tả "những điều trông thấy mà
đau đớn lòng". Vốn là phận nữ nhi, bà không thể viết lên những lời nuối
tiếc nhà Lê như là một di thần, nhưng bà chỉ muốn nói lên lòng tha thiết tiếc
thương cho một thời rực rỡ xa xưa, bị vùi dập vì loạn ly khói lửa. Trong bài
Thăng Long hoài cổ, bà đã nói lên lòng thương tiếc không nguôi những dĩ vãng
oai hùng, những thời vàng son thuở trước. Giờ đây, chiến tranh loạn lạc, bao
cảnh đổi dời, đổ nát điêu tàn.
Tạo
hoá gây chi cuộc hý trường
Đến
nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối
xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền
cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá
vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước
còn cau mặt với tang thương
Nghìn
năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh
đấy người đây luống đoạn trường
Vốn là một trang nữ lưu tài sắc, Bà huyện
Thanh Quan, cũng như hầu hết các thi nhân kim cổ, có một nguồn tình cảm dạt
dào, một tấm lòng tha thiết với gia đình. Trên con đường từ đất Bắc vào kinh đô
Huế để nhậm chức Cung trung Giáo tập, qua bao gian nan, một mình phải vượt
suối, trèo đèo, bà đã có dịp để lòng mình sống với hiu quạnh cô đơn. Và bài thơ
Chiều hôm nhớ nhà đã được viết ra để hồi tưởng lại những ngày sống với gia đình
trong ấm ngoài êm. Nếu lòng hoài cổ thiết tha, sự thân mật với gia đình càng
nồng nhiệt bao nhiêu, thì trước tạo vật, nữ sĩ cũng thấy lòng giăng trải để
rộng đón những cảnh hùng vĩ của núi sông. Sự trầm mặc của Bà huyện Thanh Quan
đôi khi đã thể hiện ở bên ngoài. Ta tưởng chừng như bà là một người đa cảm, đa
sầu, tâm hồn dễ rung động trước ngoại cảnh. Nhưng thật ra, nỗi buồn của nữ sĩ
rất nhẹ nhàng, kín đáo. Có lẽ vì quen nếp sống cổ kính của đạo lý Khổng Mạnh,
bà rất dễ dè dặt, không để tình cảm bộc lộ một cách ầm ĩ. Tuy nhiên ta cũng
thấy được phần nào nội tâm xao xuyến qua lời thơ. Lời thơ của bà rất nhẹ nhàng,
dùng lời văn khuê các, đoan trang. Thơ buồn man mác trong những câu:
Lối
xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền
cũ lâu đài bóng tịch dương
hoặc là:
Ba
hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
Một
vũng tang thương nước lộn trời
Và những u hoài của một lữ thứ khi hoàng
hôn xuống đã được thể hiện linh động nhưng mang vẻ trầm mặc, hắt hiu:
Ngàn
mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm
liễu sương sa khách bước dồn
hoặc là:
Vàng
toả non Tây, bóng ác tà
Đầm
đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa
Những lời thơ óng chuốt, đượm một vẻ bâng
khuâng luyến tiếc, đã nói lên phần nào sự rung cảm chân thành của nữ sĩ trước
tạo vật, trước thay đổi của nhân thế. Hầu hết trong thơ của bà, chúng ta có thể
tìm thấy những đường nét hao hao giống tám bức cổ hoạ của Trung Hoa: Bình sa
lạc nhạn (đàn chim nhạn bay xuống bãi cát), Sơn thị tình lam (cảnh chợ chiều
dưới chân núi), Viễn phố quy phàm (thuyền buồm ở phố xa về), Ngư thôn tịch mịch
(cảnh xóm thuyền chải buổi chiều), Sơn tự hàn chung (tiếng chuông chùa văng
vẳng trên núi), Động Đình thu nguyệt (trăng thu trên hồ Động Đình), Giang biên
mộ tuyết (cảnh gần tối tuyết sa ở bên sông), Tiêu Tương dạ vũ (cảnh đêm mưa
trên sông Tiêu Tương).
Do những bài thơ ngụ ý tiếc thương quá khứ,
Bà huyện Thanh Quan được nhiều nhà phê bình văn học xếp vào những thi sĩ có
khuynh hướng hoài cổ.
Đền Trấn Võ
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thương, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười.
-------------------------------------------------------------------
Cảnh chiều hôm
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn ?
-------------------------------------------------------------------
Cảnh thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Bài
thơ này hiện nay vẫn chưa rõ là của Bà huyện Thanh Quan hay là của Hồ Xuân
Hương.
-------------------------------------------------------------------
Chùa Trấn Bắc
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu
-------------------------------------------------------------------
Chiều hôm nhớ nhà
Vàng toả non Tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấy là ?
-------------------------------------------------------------------
Qua đèo Ngang
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh
tình riêng ta với ta
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét