Cổ
Văn Việt Nam
-----------------o0o-----------------
Truyện
Kiều
Nguyễn
Du
(Tiếp
theo)
Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà:
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ơở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
Tính rằng cách mặt khuất lời,
Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai,
Điều này hẳn miệng những người thị phi!
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài cửa kín mít như bưng.
Nào ai còn dám nói năng một lời!
Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại giỡ những lời đâu đâu.
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông dài,
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng trăm tròn sánh vai.
Thú quê thuần vược vén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm mây bạc xa xa,
Lâmtruy cũng phải tính mà thần hôn.
Được lời như mở tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,
Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
Mưa cao vốn đã rắp ranh những ngày.
Lâmtruy đường bộ tháng chầy,
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
Dọn thuyền lựa mặt giai nhân,
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
Trước cho bỏ ghét những người,
Sao cho để một trò cười về sau.
Phu nhân khen chước rất mầu.
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang.
Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng dâu đã xế ngang đầu,
Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ sao!
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước Phật đài,
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
Âm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
Tôi đôi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng
rời.
Tớ thấy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy
tàn,
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai!
Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
Di hài nhặt sắp về nhà,
Nào là
khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường
đã đủ một hai,
Lục trình
chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào
chốn cũ lầu thơ,
Tro than
một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà
cha tới trung đường,
Linh sàng
bài vị thờ nàng ở trên.
Hỡi ôi
nói hết sự duyên,
Tơ tình
đứt ruột lửa phiền cháy gan!
Gieo mình
vật vã khóc than:
Con người
thế ấy thác oan thế này.
Chắc rằng
mai trúc lại vầy,
Ai hay
vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
Thương
càng nghĩ nghĩ càng đau,
Dễ ai rấp
thảm quạt sầu cho khuây.
Gần miền
nghe có một thầy.
Phi phù
trí quỷ cao tay thông huyền.
Trên tam
đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu
thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh
lễ vật rước sang,
Xin tìm
cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân
phục trước tĩnh đàn,
Xuất thần
giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về
minh bạc nói tường:
Mặt nàng
chẳng thấy việc nàng đã tra.
Người này nặng nghiệp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
Mệnh cung đang mắc nạn to,
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
Nghe lời nói lạ đường này,
Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!
Khuyển Ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,
Đè chừng huyện Tích băng miền vượt
sang.
Giã đò lên trước sảnh đường,
Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
Bàng hoàng dở tỉnh dở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên
hầu.
Aả hoàn trên dưới giục mau,
Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
Thiên quan trủng tể có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự mình nàng phải cứ mà gởi thưa.
Bất tình nổi trận mây mưa,
Mắng rằng: Những giống bơ thờ quen
thân.
Con này chẳng phải thiện nhân,
Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn
chồng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.
Aả hoàn trên dưới dạ rân,
Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!
Trúc côn ra sức đập vào,
Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng
khinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen!
Hoa nô truyền dạy đổi tên,
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện mở đường hiếu
sinh.
Dạy rằng: May rủi đã đành,
Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là
oan nghiệp chi đây,
Sa cơ mới
đến thế này chẳng dưng.
Ơở đây
tai vách mạch rừng,
Thấy ai
người cũ cũng đừng nhìn chi.
Kẻo khi
sấm sét bất kỳ,
Con ong
cái kiến kêu gì được oan!
Nàng càng
giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng
luống những bàn hoàn niềm tây:
Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện mở đường hiếu
sinh.
Dạy rằng: May rủi đã đành,
Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là
oan nghiệp chi đây,
Sa cơ mới
đến thế này chẳng dưng.
Ơở đây
tai vách mạch rừng,
Thấy ai
người cũ cũng đừng nhìn chi.
Kẻo khi
sấm sét bất kỳ,
Con ong
cái kiến kêu gì được oan!
Nàng càng
giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng
luống những bàn hoàn niềm tây:
Phong
trần kiếp chịu đã đầy,
Lầm than lại có thứ này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng
nhan.
Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi!
Những là
nương náu qua thì,
Tiểu thư
phải buổi mới về ninh gia.
Mẹ con
trò chuyện lân la,
Phu nhân
mới gọi nàng ra dạy lời:
Tiểu thư
dưới trướng thiếu người,
Cho về
bên ấy theo đòi lầu trang.
Lĩnh lời
nàng mới theo sang,
Biết đâu
địa ngục thiên đường là đâu!
Sớm khuya
khăn mặt lược đầu,
Phận con
hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm
êm ả chiều trời,
Trúc tơ
hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời
nàng mới lựa dây,
Nỉ non
thánh thót dễ say lòng người!
Tiểu thư
xem cũng thương tài,
Khuôn uy
dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người
đày đọa chút thân,
Sớm năn
nỉ bóng đêm ân hận lòng.
Lâmtruy
chút nghĩa đèo bòng,
Nước bèo
để chữ tương phùng kiếp sau!
Bốn
phương mây trắng một màu,
Trông vời
cố quốc biết đâu là nhà?
Lần lần
tháng trọn ngày qua,
Nỗi gần
nào biết đường xa thế này.
Lâmtruy
từ thu ở uyên bay,
Phòng
không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mày ai trăng mới in ngần,
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa!
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiểu thư đón cửa giã giề.
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là,
Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy
mừng.
Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
Phải rằng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
Bây giờ tình mới tỏ tình,
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai!
Chước đâu có chước lạ đời,
Người đâu mà lại có người tinh ma!
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không
dao.
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn xiêu:
Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt nước sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
Mới về có việc chi mà động dong?
Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên!
Khen rằng: Hiếu tử đã nên,
Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi,
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!
Nàng đà tán hoán tê mê
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát
lòng!
Cũng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc
thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt
Tương.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi!
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.
Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!
Sinh thì gan héo ruột đầy,
Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.
Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai!
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi!
Nhẹ như bấc nặng như chì,
Gỡ cho ra nợ còn gì là duyên?
Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
Một mình âm ỷ đêm chầy,
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua:
Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
Sinh đà rát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng
đang!
Những e lại lụy đến nàng,
Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới thảo qua một tờ.
Diện tiền trình với tiểu thư,
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc Sinh,
Rằng: Tài nên trọng mà tình nên
thương!
Ví chăng có số giàu sang,
Giá mà dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!
Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Tiểu thư rằng: Yý trong tờ,
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
Sẵn Quan
âm các vườn ta,
Có cây
trăm thước có hoa bốn mùa.
Có cổ thụ
có sơn hồ,
Cho nàng
ra đó giữ chùa chép kinh.
Tâng tâng
trời mới bình minh,
Hương hoa
ngũ cúng sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng
ngũ cúng sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng
đến trước Phật đường,
Tam quy
ngũ giới cho nàng xuất gia.
Aáo xanh
đổi lấy cà sa,
Pháp danh
lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya
tính đủ dầu đèn,
Xuân Thu
cắt sẵn hai tên hương trà.
Nàng từ
lánh gót vườn hoa,
Dường gần
rừng tía dường xa bụi hồng.
Nhân
duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều
thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
Phật tiền
thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho
thủ tự đêm nồi tâm hương.
Cho hay
giọt nước cành dương,
Lửa lòng
tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sồng
từ trở màu thiền,
Sân thu
trăng đã vài phen đứng đầu,
Quan phòng then nhặt lưới mau,
Nói lời trước mặt rơi châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
Những là ngậm thở nuốt than,
Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.
Thừa cơ sinh mới lẻn ra,
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt sùi giở nỗi đoạn trường,
Giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh:
Đã cam chịu bạc với tình,
Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
Thấp cơ thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
Vì ta cho
lụy đến người,
Cát lầm
ngọc trắng thiệt đời xuân xanh.
Quản chi
lên thác xuống ghềnh,
Cũng toan
sống thác với tình cho xong.
Tông
đường chút chửa cam lòng,
Cắn răng
bẻ một chữ đồng làm hai.
Thẹn mình
đá nát vàng phai,
Trăm thân
dễ chuộc một lời được sao?
Nàng
rằng: Chiếc bách sóng đào,
Nổi chìm
cũng mặc lúc nào rủi may!
Chút thân
quằn quại vũng lầy,
Sống thừa
còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều
một giọt mưa rào,
Mà cho
thiên hạ trông vào cũng hay!
Xót vì
cầm đã bén dây,
Chẳng
trăm năm cũng một ngày duyên ta.
Liệu bài
mở cửa cho ra,
ấy là
tình nặng ấy là ân sâu
Sinh
rằng: Riêng tưởng bấy lâu,
Lòng
người nham hiểm biết đâu mà lường.
Nữa khi
giông tố phũ phàng,
Thiệt
riêng đấy cũng lại càng cực đây.
Liệu mà
xa chạy cao bay,
Aái ân ta
có ngần này mà thôi!
Bây giờ
kẻ ngược người xuôi,
Biết bao
giờ lại nối lời nước non?
Dẫu rằng
sông cạn đá mòn,
Con tằm
đến thác cũng còn vương tơ!
Cùng nhau
kể lể sau xưa,
Nói rồi
lại nói lời chưa hết lời.
Mặt trông
tay chẳng nỡ rời,
Hoa tì đã
động tiếng người nẻo xa.
Nhận
ngừng nuốt tủi đứng ra,
Tiểu thư
đâu đã rẽ hoa bước vào.
Cười cười
nói nói ngọt ngào,
Hỏi:
Chàng mới ở chốn nào lại chơi?
Dối quanh
sinh mới liệu lời:
Tìm hoa
quá bước xem người viết kinh.
Khen
rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lanđình nào thua!
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!
Thiền trà cạn nước hồng mai,
Thong dong nối gót như trai cùng về.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau.
Hoa rằng: Bà đến đã lâu,
Nhón chân đứng nép độ đâu nửa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than.
Ngăn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
ấy mới gan ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang bắt được dường này,
Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng.
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười này mới thực khôn lường hiểm sâu!
Thân ta
ta phải lo âu,
Miệng hùm
nọc rắn ở đâu chốn này.
Ví chăng chắp cánh cao bay,
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
Phận bèo bao quản nước sa,
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê khách một mình,
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa.
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây,
Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu
sương.
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường sá phần thương dãi dầu!
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền
thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
Tiểu thiền quê ở Bắckinh,
Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu.
Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra,
Xem qua
sư mới dạy qua:
Phải ni
Hằng Thủy là ta hậu tình.
Chỉn e
đường sá một mình,
Ơở đây
chờ đợi sư huynh ít ngày.
Gởi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong
dong.
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc trước trai phòng quen
tay.
Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chầy nện
sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
Sư càng nể mặt nàng càng vững chân.
Cửa thiền vừa cữ cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất vẻ ngân vang trời.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lân chơi cửa già.
Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn
nương!
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
Bây giờ sự đã dường này,
Phận hèn dù rủi dù may tại người.
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương nửa sợ bồi hồi chẳng xong.
Rỉ tai mới kể sự lòng:
Ơở đây cửa Phật là không hẹp gì.
E chăng những sự bất kỳ,
Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
Lánh xa trước liệu tìm đường,
Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê.
Có nhà họ Bạc bên kia,
Am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang dặn hết mọi đường,
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
Những mừng được chốn an thân,
Vội vàng nào kịp tính gần tính xa.
Nào ngờ cùng tổ bợm già,
Bạc bà học với Tú bà đồng môn!
Thấy nàng mặn phấn tươi son,
Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
Hư không đặt để nên lời,
Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
Mụ càng xui giục cho nên,
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
Rằng: Nàng muôn dặm một thân,
Lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa.
Khéo oan gia của phá gia,
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây.
Kip toan kiếm chốn xe dây,
Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
Cũng trong thân thích ruột rà chẳng
ai.
Cửa hàng buôn bán châu Thai,
Thật thà có một đơn sai chẳng hề.
Thế nào nàng cũng phải nghe,
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.
Bấy giờ ai lại biết ai,
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
Trái trời nẻo trước lụy mình đến sau.
Nàng càng mặt ủ mày chau,
Càng nghe mụ nói càng đau như dần.
Nghĩ mình túng đất sẩy chân,
Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
Thiếp như con én lạc đàn,
Phải cung rày đã sợ làn cây cong!
Cùng đường dù tính chữ tòng,
Biết người biết mặt biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào,
Bán mình buôn sói chắc vào lưng đâu?
Dù ai lòng có sở cầu,
Tâm minh xin quyết với nhau một lời.
Chứng minh có đất có trời,
Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?
Được lời mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình,
Quét sân đặt trác rửa bình thắp nhang.
Bạc sinh quỳ xuống vội vàng,
Quá lời nguyện hết Thành hoàng Thổ
công.
Trước sân lòng đã giãi lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
Thành thân mới rước xuống thuyền,
Thuận buồm một lá xuôi miền châu Thai.
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
Cũng phường bán thịt cũng tay buôn
người.
Xem người định giá vừa rồi,
Mối hàng một đã ra mười thì buông.
Mượn người thuê kiệu rước nàng,
Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa!
Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng cũng phường lầu
xanh!
Thoắt trông nàng đã biết tình,
Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.
Lỡ từ lạc bước bước ra,
Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Đầu xanh đã tội tình gì?
Má hồng đền quá nửa thì chưa thôi.
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việtđông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Nàng rằng: Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!
Từ rằng: Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bìnhnguyên
quân.
Lại đây xem lại cho gần,
Phỏng tin được một vài phần hay không?
Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
Tấndương được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!
Nghe lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người?
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
Hai bên ý hợp tâm đầu,
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân.
Ngỏ lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát
hoàn.
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên.
Trai anh hùng gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi
rồng.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn
phương,
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng
giong.
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường
tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp
đường.
Làm cho rõ mặt phi tường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Nàng từ chiếc bóng song mai,
Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
Cỏ cao hơn thước liễu gầy vài phân.
Đoái trông muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Xót thay huyên nỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Chốc đà mười mấy năm trời.
Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng.
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm,
Đêm ngày luống những âm thầm,
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc chật đường giáp
binh.
Người quen thuộc kẻ chung quanh,
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,
Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!
Còn đang dùng dắng ngẩn ngơ,
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiến la.
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
Đồng thanh cùng gởi: Nào là phu nhân?
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu.
Cung nga thể nữ nối sau,
Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy.
Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan
chấp chới hà y rỡ ràng.
Dựng cờ
nổi trống lên đường,
Trúc tơ
nổi trước kiệu vàng kéo sau.
Hỏa bài
tiền lộ ruổi mau,
Nam đình
nghe động trống chầu đại doanh.
Kéo cờ
lũy phát súng thành,
Từ công
ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.
Rỡ mình
là vẻ cân đai,
Hãy còn
hàm én mày ngài như xưa.
Cười
rằng: Cá nước duyên ưa!
Nhớ lời
nói những bao giờ hay không?
Anh hùng
mới biết anh hùng,
Rày xem
phỏng đã cam lòng ấy chưa?
Nàng
rằng: Chút phận ngây thơ,
Cũng may
dây cát được nhờ bóng cây!
Đến bây
giờ mới thấy đây,
Mà lòng
đã chắc những ngày một hai.
Cùng nhau
trông mặt cả cười,
Dan tay
về chốn trướng mai tự tình.
Tiệc bày
thưởng tướng khao binh,
Thì thùng
trống trận rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Trong quân có lúc vui vầy,
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
Khi Vô tích khi Lâm truy,
Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương.
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
Chút còn ân oán đôi đường chưa xong.
Từ công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo ra Vô tích đạo vào Lâm truy.
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
Mụ quản gia vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng lòng cũng giận người người chấp
uy.
Đạo trời báo phục chỉn ghê,
Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi.
Quân trung gươm lớn giáo dài,
Vệ trong thị lập cơ ngoài song phi.
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Vác đòng chật đất tinh kỳ rợp sân.
Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi,
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa
viên.
Từ rằng: Ân oán hai bên,
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.
Nàng rằng: Muôn cậy uy linh,
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
Báo ân rồi sẽ trả thù.
Từ rằng: Việc ấy để cho mặc nàng.
Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ mình dường giẻ run.
Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non,
Lâmtruy người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!
Thúc sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
Mụ già sư trưởng thứ hai.
Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên.
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi!
Nhớ khi lỡ bước sẩy vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!
Hai người trông mặt tần ngần,
Nửa phần khiếp sợ nửa phần mừng vui.
Nàng rằng: Xin hãy rốn ngồi,
Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù!
Kíp truyền chư tướng hiến phù,
Lại đem các tích phạm tù hậu tra.
Dưới cờ gươm,
tuốt nắp ra,
Chính danh thủ
phạm tên là Hoạn Thư.
Thoắt trông
nàng đã chào thưa,
Tiểu thư cũng
có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có
mấy tay,
Đời xưa mấy
mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là
thói hồng nhan,
Càng cay
nghiệt lắm càng oan trái nhiều!
Hoạn thư hồn
lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới
trướng lựa điều kêu ca.
Rằng: Tôi chút
dạ đàn bà,
Ghen tuông thì
cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi
các viết kinh,
Với khi khỏi
cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng
riêng những kính yêu,
Chồng chung
chưa dễ ai chiều cho ai!
Trót lòng gây
việc chông gai,
Còn nhờ lượng
bể thương bài cho chăng!
Khen cho: Thật
đã nên rằng,
Khôn ngoan đến
mực nói năng phải lời.
Tha ra thì
cũng may đời,
Làm ra thì
cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri
quá thì nên,
Truyền quân
lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Tạ lòng lạy
trước sân mây,
Cửa viên lại
dắt một dây dẫn vào.
Nàng rằng:
Lồng lộng trời cao,
Hại nhân nhân
hại sự nào tại ta!
Trước là Bạc
Hạnh Bạc bà,
Bên là Ưng Khuyển bên là Sở Khanh,
Tú bà với Mã Giám sinh,
Các bên tội ấy đáng tình còn sao?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
Cho hay muôn
sự tại trời,
Phụ người
chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc
ác tinh ma,
Mình làm mình
chịu kêu mà ai thương.
Ba quân đông
mặt pháp trường,
Thanh thiên
bạch nhật rõ ràng cho coi.
Việc nàng báo
phục vừa rồi,
Giác Duyên vội
đã gởi lời từ quy.
Nàng rằng:
Thiên tải nhất thì,
Cố nhân đã dễ
mấy khi bàn hoàn.
Rồi đây bèo
hợp mây tan,
Biết đâu hạc
nội mây ngàn là đâu!
Sư rằng: Cũng
chẳng mấy lâu,
Trong năm năm
lại gặp nhau đó mà.
Nhớ ngày hành
cước phương xa,
Gặp sư Tam Hợp
vốn là tiên tri.
Bảo cho hội
ngộ chi kỳ,
Năm nay là một
nữa thì năm năm.
Mới hay tiền
định chẳng lầm,
Đã tin điều
trước ắt nhằm việc sau.
Còn nhiều ân
ái với nhau,
Cơ duyên nào
đã hết đâu vội gì?
Nàng rằng:
Tiền định tiên tri,
Lời sư đã dạy
ắt thì chẳng sai.
Họa bao giờ có
gặp người,
Vì tôi cậy hỏi
một lời chung thân.
Giác Duyên
vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoắt đã
dời chân cõi ngoài.
Nàng từ ân oán
rạch ròi,
Bể oan dường
đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy
trước Từ công:
Chút thân bồ
liễu nào mong có rày!
Trộm nhờ sấm
sét ra tay,
Tấc riêng như
cất gánh đầy đổ đi!
Chạm xương
chép dạ xiết chi,
Dễ đem gan óc
đền ghì trời mây!
Từ rằng: Quốc
sĩ xưa nay,
Chọn người tri
kỷ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng
đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu
thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc
cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn
dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
Bình uy từ ấy
sấm ran trong ngoài.
Triều đình
riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ
rạch đôi sơn hà.
Đòi cơn gió
quét mưa sa,
Huyện thành
đạp đổ năm tòa cõi nam.
Phong trần mài
một lưỡi gươm,
Những loài giá
áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang
một cõi biên thùy,
Kém gì cô quả
kém gì bá vương!
Trước cờ ai
dám tranh cường,
Năm năm hùng
cứ một phương hải tần.
Có quan tổng
đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến
kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng
chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát
tiễu việc ngoài đổng nhung.
Biết Từ là
đấng anh hùng,
Biết nàng cũng
dự quân trung luận bàn.
Đóng quân làm
chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm
vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một
lễ với nàng,
Hai tên thể nữ
ngọc vàng nghìn cân.
Tin vào gởi
trước trung quân,
Từ công riêng
hãy mười phân hồ đồ.
Một tay gây
dựng cơ đồ,
Bấy lâu để Sở
sông Ngô tung hoành!
Bó thân về với
triều đình,
Hàng thần lơ
láo phận mình ra đâu?
Aáo xiêm ràng
buộc lấy nhau,
Vào luồn ra
cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng
một biên thùy,
Sức này đã dễ
làm gì được nhau?
Chọc trời quấy
nước mặc dầu,
Dọc ngang nào
biết trên đầu có ai?
Nàng thì thật
dạ tin người,
Lễ nhiều nói
ngọt nghe lời dễ xiêu.
Nghĩ mình mặt
nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu
lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu
tiếng vương thần,
Thênh thênh
đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả
hai bề,
Dần dà rồi sẽ
liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh
phụ đường đường,
Nở nang mày
mặt rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước
dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng vỗ hãi hùng nước sa.
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: Trong
Thánh trạch dồi dào,
Tưới ra đã
khắp thấm vào đã sâu.
Bình thành
công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội
trên đầu biết bao.
Ngẫm từ dấy
việc binh đao,
Đống xương Vô
định đã cao bằng đầu.
Làm chi để
tiếng về sau,
Nghìn năm ai
có khen đâu Hoàng Sào!
Sao bằng lộc
trọng quyền cao,
Công danh ai
dứt lối nào cho qua?
Nghe lời nàng
nói mặn mà,
Thế công Từ
mới trở ra thế hàng.
Chỉnh nghi
tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc
giáp quyết đường giải binh.
Tin lời thành
hạ yêu minh,
Ngọn cờ ngơ
ngác trống canh trễ tràng.
Việc binh bỏ
chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm
đã tỏ tường thực hư.
Hồ công quyết
kế thừa cơ,
Lễ tiên binh
hậu khắc cờ tập công.
Kéo cờ chiêu
phủ tiên phong,
Lễ nghi dàn
trước vác đòng phục sau.
Từ công hờ
hững biết đâu,
Đại quan lễ
phục ra đầu cửa viên.
Hồ công ám
hiệu trận tiền,
Ba bề phát
súng bốn bên kéo cờ.
Đang khi bất ý
chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi
đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh liều
giữa trận tiền,
Dạn dầy cho
biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi
đã về thần,
Nhơn nhơn còn
đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá
vững như đồng,
Ai lay chẳng
chuyển ai rung chẳng dời.
Quan quân truy
sát đuổi dài.
Uù ù sát khí
ngất trời ai đang.
Trong hào
ngoài lũy tan hoang,
Loạn quân vừa
dắt tay nàng đến nơi.
Trong vòng tên
đá bời bời,
Thấy Từ còn
đứng giữa trời trơ trơ.
Khóc rằng: Trí
dũng có thừa,
Bởi nghe lời
thiếp nên cơ hội này!
Mặt nào trông
thấy nhau đây?
Thà liều sống
thác một ngày với nhau!
Dòng thu như
giội cơn sầu,
Dứt lời nàng
cũng gieo đầu một bên.
Lạ thay oan
khí tương triền!
Nàng vừa phục
xuống Từ liền ngã ra.
Quan quân kẻ
lại người qua,
Xót nàng sẽ
lại vực ra dần dần.
Đem vào đến
trước trung quân,
Hồ công thấy
mặt ân cần hỏi han.
Rằng: Nàng
chút phận hồng nhan,
Gặp cơn binh
cách nhiều nàn cũng thương!
Đã hay thành
toán miếu đường,
Giúp công cũng
có lời nàng mới nên.
Bây giờ sự đã
vẹn tuyền,
Mặc lòng nghĩ
lấy muốn xin bề nào?
Nàng càng giọt
ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới
gởi thấp cao sự lòng.
Rằng: Từ là
đấng anh hùng,
Dọc ngang trời
rộng vẫy vùng bể khơi!
Tin tôi nên
quá nghe lời,
Đem thân bách
chiến làm tôi triều đình.
Ngỡ là phu quý phụ vinh,
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
Năm năm trời bể ngang tàng,
Dấn mình đi bỏ chiến trường như không.
Khéo khuyên để lấy làm công,
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít tội nhiều,
Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho tiện thổ một doi,
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền cho cảo táng di hình bên sông.
Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bôn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
Cung cầm lựa những ngày xưa,
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
Nghe càng đắm
ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt
cũng ngây vì tình!
Dạy rằng:
Hương lửa ba sinh,
Dây loan xin
nối cầm lành cho ai.
Thưa rằng:
Chút phận lạc loài,
Trong mình
nghĩ đã có người thác oan.
Còn chi nữa
cánh hoa tàn,
Tơ lòng đã dứt
dây đàn Tiểu Lân.
Rộng thương
còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được
thấy gốc phần là may!
Hạ công chén
đã quá say,
Hồ công đến
lúc rạng ngày nhớ ra.
Nghĩ mình
phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm
xuống người ta trông vào.
Phải tuồng
trăng gió hay sao,
Sự này biết
tính thế nào được đây?
Công nha vừa
buổi sáng ngày,
Quyết tình Hồ
mới đoán ngay một bài.
Lệnh quan ai
dám cãi lời,
Ép tình mới
gán cho người thổ quan.
Ông tơ thực
nhé đa đoan!
Xe tơ sao khéo
vơ quàng vơ xiên?
Kiệu hoa áp
thắng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp
ngọn đèn khêu cao.
Nàng càng ủ
liễu phai đào,
Trăm phần nào
có phần nào phần tươi?
Đành thân cát
lấp sóng vùi,
Cướp công cha
mẹ thiệt đời thông minh!
Chân trời mặt
bể lênh đênh,
Nắm xương biết
gởi tử sinh chốn nào?
Duyên đâu ai dứt
tơ đào,
Nợ đâu ai đã
dắt vào tận tay!
Thân sao thân
đến thế này?
Còn ngày nào
cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết
sống là vui,
Tấm thân nào
biết thiệt thòi là thương!
Một mình cay
đắng trăm đường,
Thôi thì nát
ngọc tan vàng thì thôi!
Mảnh trăng đã
gác non đoài,
Một mình luống
những đứng ngồi chưa xong.
Triều đâu nổi
tiếng đùng đùng,
Hỏi ra mới
biết rằng sông Tiền đường.
Nhớ lời thần
mộng rõ ràng,
Này thôi hết
kiếp đoạn trường là đây!
Đạm Tiên nàng
nhé có hay!
Hẹn ta thì đợi
dưới này rước ta.
Dưới đèn sẵn
bức tiên hoa,
Một thiên
tuyệt bút gọi là để sau.
Cửa bồng vội
mở rèm châu,
Trời cao sông
rộng một màu bao la.
Rằng: Từ công
hậu đãi ta,
Chút vì việc
nước mà ra phụ lòng.
Giết chồng mà
lại lấy chồng,
Mặt nào còn
đứng ở trong cõi đời?
Thôi thì một
thác cho rồi,
Tấm lòng phó
mặc trên đời dưới sông!
Trông vời con
nước mênh mông,
Đem mình gieo
xuống giữa dòng trường giang.
Thổ quan theo
vớt vội vàng,
Thì đà đắm
ngọc chìm hương hương mất rồi!
Thương thay
cũng một kiếp người,
Hại thay mang
lấy sắc tài làm chi!
Những là oan
khổ lưu ly,
Chờ cho hết
kiếp còn gì là thân!
Mười lăm năm
bấy nhiêu lần,
Làm gương cho
khách hồng quần thử soi!
Đời người đến
thế thì thôi,
Trong cơ âm
cực dương hồi khôn hay.
Mấy người hiếu
nghĩa xưa nay,
Trời làm chi
đến lâu ngày càng thương!
Giác Duyên từ
tiết giã màng,
Đeo bầu quảy
níp rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp
đạo cô,
Thong dong hỏi
hết nhỏ to sự nàng:
Người sao hiếu
nghĩa đủ đường,
Kiếp sao rặt
những đoạn trường thế thôi?
Sư rằng: Phúc
họa đạo trời,
Cỗi nguồn cũng
ở lòng người mà ra.
Có trời mà
cũng tại ta,
Tu là cỗi phúc tình là dây oan.
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những
chốn thong dong,
Ơở không yên
ổn ngồi không vững vàng.
Ma đưa lối quỷ
đem đường,
Lại tìm những
chốn đoạn trường mà đi.
Hết nạn ấy đến
nạn kia,
Thanh lâu hai
lượt thanh y hai lần.
Trong vòng
giáo dựng gươm trần,
Kề răng hùm
sói gởi thân tôi đòi.
Giữa dòng nước
dẫy sóng dồi,
Trước hàm rồng
cá gieo mồi vắng tanh.
Oan kia theo
mãi với tình,
Một mình mình
biết một mình mình hay.
Làm cho sống
đọa thác đầy,
Đoạn trường
cho hết kiếp này mới thôi!
Giác Duyên
nghe nói rụng rời:
Một đời nàng
nhé thương ôi còn gì!
Sư rằng: Song
chẳng hề chi,
Nghiệp duyên
cân lại nhắc đi còn nhiều.
Xét trong tội
nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình
ái khỏi điều tà dâm,
Lấy tình thâm
trả nghĩa thâm,
Bán mình đã
động hiếu tâm đến trời!
Hại một người
cứu muôn người,
Biết đường
khinh trọng biết lời phải chăng.
Thửa công đức
ấy ai bằng?
Túc khiên đã
rửa lâng lâng sạch rồi!
Khi nên trời
cũng chiều người,
Nhẹ nhàng nợ
trước đền bồi duyên sau.
Giác Duyên dù
nhớ nghĩa nhau,
Tiền Đường thả
một bè lau rước người.
Trước sau cho
vẹn một lời,
Duyên ta mà
cũng phúc trời chi không!
Giác Duyên
nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú
bên sông Tiền Đường,
Đánh tranh
chụm nóc thảm đường,
Một gian nước
biếc mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư
phủ hai người,
Đóng thuyền
chực bến kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng
quản mấy công,
Khéo thay gặp
gỡ cũng trong chuyển vần!
Kiều từ gieo
xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng
đã trôi dần tận nơi.
Ngư ông kéo
lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam
Hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
Rằng: Tôi đã có lòng chờ,
Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
Chị sao phận mỏng phúc dày,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu cứu người là thân.
Một niềm vì nước vì dân,
Âm công cất một đồng cân đã già!
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,
Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền
nào thấy Đạm Tiên,
Bên mình chỉ
thấy Giác Duyên ngồi kề.
Thấy nhau mừng
rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới
rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung
chạ sớm trưa,
Gió trăng mát
mặt muối dưa chay lòng.
Bốn bề bát
ngát mênh mông,
Triều dâng hôm
sớm mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút
sạch lầu lầu,
Duyên xưa chưa
dễ biết đâu chốn này.
Nỗi nàng tai
nạn đã đầy,
Nỗi chàng Kim
Trọng bấy chầy mới thương.
Từ ngày muôn
dặm phù tang,
Nửa năm ở đất
Liêu Dương lại nhà.
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
Điều đâu sét đánh lưng trời,
Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
Vội han đi trú nơi nao,
Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
Nhà tranh vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa,
Càng cao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
Dắt tay vội rước vào nhà,
Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
Khóc than kể
hết niềm tây:
Chàng ôi biết
nỗi nước này cho chưa?
Kiều nhi phận
mỏng như tờ,
Một lời đã lỗi
tóc tơ với chàng!
Gặp cơn gia
biến lạ dường,
Bán mình nó
phải tìm đường cứu cha.
Dùng dằng khi
bước chân ra,
Cực trăm nghìn
nỗi dặn ba bốn lần.
Trót lời nặng
với lang quân,
Mượn con em nó
Thúy Vân thay lời.
Gọi là trả
chút nghĩa người,
Sầu này dằng
dặc muôn đời chưa quên!
Kiếp này duyên
đã phụ duyên,
Dạ đài còn
biết sẽ đền lai sinh.
Mấy lời ký chú
đinh ninh,
Ghi lòng để dạ
cất mình ra đi.
Phận sao bạc
bấy Kiều nhi!
Chàng Kim về
đó con thì đi đâu?
Ông bà càng
nói càng đau,
Chàng càng
nghe nói càng dàu như dưa.
Vật mình vẫy
gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt
ngọc thẫn thờ hồn mai!
Đau đòi đoạn
ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại
khóc khóc rồi lại mê.
Thấy chàng đau
nỗi biệt ly,
Nhận ngừng ông
mới vỗ về giải khuyên:
Bây giờ ván đã
đóng thuyền,
Đã đành phận
bạc khôn đền tình chung!
Quá thương
chút nghĩa đèo bòng,
Nghìn vàng
thân ấy dễ hòng bỏ sao?
Dỗ dành khuyên
giải trăm chiều,
Lửa phiền càng
dập càng khêu mối phiền.
Thề xưa giở
đến kim hoàn,
Của xưa lại
giở đến đàn với hương.
Sinh càng
trông thấy càng thương
Gan càng tức
tối ruột càng xót xa.
Rằng: Tôi trót
quá chân ra,
Để cho đến nỗi
trôi hoa giạt bèo.
Cùng nhau thề
thốt đã nhiều,
Những điều
vàng đá phải điều nói không!
Chưa chăn gối
cũng vợ chồng,
Lòng nào mà nỡ
dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của
mấy ngày đàng,
Còn tôi tôi
một gặp nàng mới thôi!
Nỗi thương nói
chẳng hết lời,
Tạ từ sinh mới
sụt sùi trở ra.
Vội về sửa
chốn vườn hoa,
Rước mời viên
ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn chăm
chút lễ thường,
Dưỡng thân
thay tấm lòng nàng ngày xưa.
Đinh ninh mài
lệ chép thơ,
Cắt người tìm
tõi đưa tờ nhắn nhe.
Biết bao công
mướn của thuê,
Lâmthanh mấy
độ đi về dặm khơi.
Người một nơi
hỏi một nơi,
Mênh mông nào
biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm
thiết khát khao,
Như nung gan
sắt như bào lòng son.
Ruột tằm ngày
một héo don,
Tuyết sương
ngày một hao mòn mình ve.
Thẫn thờ lúc
tỉnh lúc mê,
Máu theo nước
mắt hồn lìa chiêm bao.
Xuân huyên lo
sợ biết bao,
Quá ra khi đến
thế nào mà hay!
Vội vàng sắm
sửa chọn ngày,
Duyên Vân sớm
đa se dây cho chàng.
Người yểu điệu
kẻ văn chương,
Trai tài gái
sắc xuân đương vừa thì.
Tuy rằng vui chữ vu quy,
Vui này đã cất sầu kia được nào!
Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc bên thềm,
Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế hoa gặp hội trường văn.
Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
Tình xưa ân trả nghĩa đền,
Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
Kim từ nhẹ bước thanh vân,
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.
ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?
Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
Vâng ra ngoại nhậm Lâmtruy,
Quan sơn nghìn dặm thê nhi một đoàn.
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn chiêm dao.
Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi.
Nọ Lâmthanh với Lâmtruy,
Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh
khí tương tầm,
Ơở đây hoặc có
giai âm chăng là?
Thăng đường
chàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ
lại già thưa lên:
Sự này đã
ngoại mười niên,
Tôi đà biết
mặt biết tên rành rành.
Tú bà cùng Mã
Giám sinh,
Đi mua người ở
Bắckinh đưa về.
Thúy Kiều tài
sắc ai bì,
Có nghề đàn
lại đủ nghề văn thơ.
Kiên trinh
chẳng phải gan vừa,
Liều mình thế
ấy phải lừa thế kia.
Phong trần
chịu đã ê chề,
Tơ duyên sau
lại xe về Thúc lang.
Phải tay vợ cả
phũ phàng,
Bắt về Vôtích
toan đường bẻ hoa.
Bực mình nàng
phải trốn ra,
Chẳng may lại
gặp một nhà Bạc kia.
Thoắt buôn về
thoắt bán đi,
Mây trôi bèo
nổi thiếu gì là nơi!
Bỗng đâu lại
gặp một người,
Hơn đời trí
dũng nghiêng trời uy linh.
Trong tay mười
vạn tinh binh,
Kéo về đóng
chật một thành Lâmtruy.
Tóc tơ các
tích mọi khi,
Oán thì trả
oán ân thì trả ân.
Đã nên có
nghĩa có nhân,
Trước sau trọn
vẹn xa gần ngợi khen.
Chưa tường
được họ được tên,
Sự này hỏi
Thúc sinh viên mới tường.
Nghe lời Đô
nói rõ ràng,
Tức thì đưa
thiếp mời chàng Thúc sinh.
Nỗi nàng hỏi
hết phân minh,
Chồng con đâu
tá tính danh là gì?
Thúc rằng: Gặp
lúc lưu ly,
Trong quân tôi
hỏi thiếu gì tóc tơ.
Đại vương tên
Hải họ Từ,
Đánh quen trăm
trận sức dư muôn người.
Gặp nàng khi ở
châu Thai,
Lạ gì quốc sắc
thiên tài phải duyên.
Vẫy vùng trong
bấy nhiêu niên,
Làm nên động
địa kinh thiên đùng đùng.
Đại quân đồn
đóng cõi đông,
Về sau chẳng
biết vân mồng làm sao.
Nghe tường
ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng
chàng luống lao đao thẫn thờ.
Xót thay chiếc
lá bơ vơ,
Kiếp trần biết
giũ bao giờ cho xong?
Hoa trôi nước
chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm
nổi đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi
muôn vàn,
Mảnh hương còn
đó phím đàn còn đây,
Đàn cầm khéo
ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết
có kiếp này nữa thôi?
Bình bồng còn
chút xa xôi,
Đỉnh chung sao
nỡ ăn ngồi cho an!
Rắp mong treo
ấn từ quan,
Mấy sông cũng
lội mấy ngàn cũng pha.
Dấn mình trong
áng can qua,
Vào sinh ra tử
họa là thấy nhau.
Nghĩ điều trời
thẳm vực sâu,
Bóng chim tăm
cá biết đâu mà nhìn!
Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dời?
Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
Kim thì cải nhậm Nambình,
Chàng Vương cũng cải nhậmt hành Phúdương.
Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.
Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúckiến lửa tàn Chiếtgiang.
Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa.
Hàngchâu đến đó bây giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đã gieo ngọc trầm châu,
Sông Tiềnđường đó ấy mồ hồng nhau!
Thương ôi! không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
Cơ duyên đâu bông lạ sau,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa,
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
Nghe tin nhơ
nhác rụng rời,
Xúm quanh kể
lể rộn lời hỏi tra:
Này chồng này
mẹ này cha,
Này là em ruột này là em dâu.
Thật tin nghe đã bấy lâu,
Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!
Sư rằng: Nhân quả với nàng,
Lâmtruy buổi trước Tiềnđường buổi sau.
Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
Cùng nhau nương cửa bồ đề,
Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
Phật tiền ngày bạc lân la,
Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
Nghe tin nở
mặt nở mày,
Mừng nào lại
quá mừng này nữa chăng?
Từ phen chiếc
lá lìa rừng,
Thăm tìm luống
những liệu chừng nước mây.
Rõ ràng hoa
rụng hương bay,
Kiếp sau họa
thấy kiếp này hẳn thôi.
Minh dương đôi
ngả chắc rồi,
Cõi trần mà
lại thấy người cửu nguyên!
Cùng nhau lạy
tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ
theo liền một khi.
Bẻ lau vạch cỏ
tìm đi,
Tình thâm
luống hãy hồ nghi nửa phần.
Quanh co theo
dải giang tân,
Khỏi rừng lau
đã tới sân Phật đường.
Giác Duyên lên
tiếng gọi nàng,
Phòng trong
vội dạo sen vàng bước ra.
Trông xem đủ
mặt một nhà:
Xuân già còn
khỏe huyên già còn tươi.
Hai em phương
trưởng hòa hai,
Nọ chàng Kim
đó là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ
là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt
còn ngờ chiêm bao!
Giọt châu
thánh thót quẹn bào,
Mừng mừng tủi
tủi xiết bao là tình!
Huyên già dưới
gối gieo mình,
Khóc than mình
kể sự mình đầu đuôi:
Từ con lưu lạc
quê người,
Bèo trôi sóng
vỗ chốc mười lăm năm!
Tính rằng sông
nước cát lầm,
Kiếp này ai
lại còn cầm gặp đây!
Ông bà trông
mặt cầm tay,
Dung quang
chẳng khác chi ngày bước ra.
Bấy chầy dãi
nguyệt dầu hoa,
Mười phần xuân
có gầy ba bốn phần.
Nỗi mừng biết
lấy chi cân?
Lời tan hợp
chuyện xa gần thiếu đâu!
Hai em hỏi
trước han sau,
Đứng trông
chàng cũng trở sầu làm tươi.
Quây nhau lạy
trước Phật đài,
Tái sinh trần
tạ lòng người từ bi.
Kiệu hoa giục
giã tức thì,
Vương ông dạy
rước cùng về một nơi.
Nàng rằng:
Chút phận hoa rơi,
Nửa đời nếm
trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng mặt
nước chân mây,
Lòng nào còn
tưởng có rày nữa không?
Được rày tái
thế tương phùng.
Khát khao đã
thỏa tấm lòng lâu nay!
Đã đem mình bỏ
am mây,
Tuổi này gởi
với cỏ cây cũng vừa.
Mùi thiền đã
bén muối dưa,
Màu thiền ăn
mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt
lửa lòng,
Còn chen vào
chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có
hay gì,
Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
Trùng sinh ân nặng bể trời,
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
Độ sinh nhờ đức cao dày,
Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.
Nghe lời nàng phải chiều lòng,
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
Một nhà về đến quan nha,
Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
Tàng tàng chén
cúc dở say,
Đứng lên Vân
mới giãi bày một hai.
Rằng: Trong
tác hợp cơ trời.
Hai bên gặp gỡ
một lời kết giao.
Gặp cơn bình
địa ba đào,
Vậy đem duyên
chị buộc vào cho em.
Cũng là phận
cải duyên kim,
Cũng là máu
chảy ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước mai ao,
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.
Còn duyên may lại còn người,
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
Quả mai ba bảy dương vừa,
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Dứt lời nàng vội gạt đi:
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa,
Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
Một lời đã trót thâm giao,
Dưới dày có đất trên cao có trời!
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh!
Duyên kia có phụ chi tình,
Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?
Nàng rằng: Gia
thất duyên hài,
Chút lòng ân
ái ai ai cũng lòng.
Nghĩ rằng
trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong
nhị trăng vòng tròn gương.
Chữ trinh đáng
giá nghìn vàng,
Đuốc hoa chẳng
thẹn với chàng mai xưa.
Thiếp từ ngộ
biến đến giờ,
Ong qua bướm
lại đã thừa xấu xa.
Bấy chầy gió
táp mưa sa.
Mấy trăng cũng
khuyết mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Từ rày khép cửa phòng thu
Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
Chàng dù nghĩ đến tình xa,
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
Nói chi kết tóc xe tơ,
Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!
Chàng rằng: Khéo nói nên lời,
Mà trong lẽ phải có người có ta!
Xưa nay trong
đạo đàn bà,
Chữ trinh kia
cũng có ba bảy đường,
Có khi biến có
khi thường,
Có quyền nào
phải một đường chấp kinh.
Như nàng lấy
hiếu làm trinh,
Bụi nào cho
đục được mình ấy vay?
Trời còn để có
hôm nay,
Tan sương đầu
ngõ vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại
thêm tươi,
Trăng tàn mà
lại hơn mười rằm xưa.
Có điều chi
nữa mà ngờ,
Khách qua
đường để hững hờ chàng Tiêu!
Nghe chàng nói
đã hết điều,
Hai thân thì
cũng quyết theo một bài.
Hết lời khôn
lẽ chối lời,
Cúi đầu nàng
những ngắn dài thở than.
Nhà vừa mở
tiệc đoàn viên,
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
Động phòng dìu dặt chén mồi,
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.
Những từ sen
ngó đào tơ,
Mười lăm năm
mới bây giờ là đây!
Tình duyên ấy
hợp tan này,
Bi hoan mấy
nỗi đêm chầy trăng cao.
Canh khuya bức
gấm rủ thao,
Dưới đèn tỏ
dạng má đào thêm xuân.
Tình nhân lại
gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ
mấy phân chung tình.
Nàng rằng:
Phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa
cái mình bỏ đi!
Nghĩ chàng
nghĩa cũ tình ghi,
Chiều lòng gọi
có xướng tùy mảy may.
Riêng lòng đã
thẹn lắm thay,
Cũng đà mặt
dạn mày dày khó coi!
Những như âu
yếm vành ngoài,
Còn toan mở
mặt với người choqua.
Lại như những
thói người ta,
Vớt hương dưới
đất bẻ hoa cuối mùa.
Khéo là giở
nhuốc bày trò,
Còn tình đâu
nữa là thù đấy thôi!
Người yêu ta
xấu với người,
Yêu nhau thì
lại bằng mười phụ nhau!
Cửa nhà dù
tính về sau,
Thì còn em đó
lọ cầu chị đây.
Chữ trinh còn
một chút này,
Chẳng cầm cho
vững lại giày cho tan!
Còn nhiều ân
ái chan chan,
Hay gì vầy
cánh hoa tàn mà chơi?
Chàng rằng:
Gắn bó một lời,
Bỗng không cá
nước chim trời lỡ nhau.
Xót người lưu
lạc bấy lâu,
Tưởng thề thốt
nặng cũng đau đớn nhiều!
Thương nhau
sinh tử đã liều,
Gặp nhau còn
chút bấy nhiêu là tình.
Chừng xuân tơ
liễu còn xanh,
Nghĩ rằng chưa
thoát khỏi vành ái ân.
Gương trong
chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết
hẳn muôn phần kính thêm!
Bấy lâu đáy bổ
mò kim,
Là nhiều vàng
đá phải tìm trăng hoa?
Ai ngờ lại họp
một nhà,
Lọ là chăn gối
mới ra sắt cầm!
Nghe lời sửa
áo cài trâm,
Khấu đầu lạy
tạ cao thâm nghìn trùng:
Thân tàn gạn
đục khơi trong,
Là nhờ quân tử
khác lòng người ta.
Mấy lời tâm
phúc ruột rà,
Tương tri
đường ấy mới là tương tri!
Chở che đùm
bọc thiếu gì,
Trăm năm danh
tiết cũng vì đêm nay!
Thoắt thôi tay
lại cầm tay,
Càng yêu vì
nết càng say vì tình.
Thêm nến giá
nối hương bình,
Cùng nhau lại
chuốc chén quỳnh giao hoan.
Tình xưa lai
láng khôn hàn,
Thong dong lại
hỏi ngón đàn ngày xưa.
Nàng rằng: Vì
mấy đường tơ,
Lầm người cho
đến bây giờ mới thôi!
Ăn năn thì sự
đã rồi!
Nể lòng người
cũ vâng lời một phen.
Phim đàn dìu
dặt tay tiên,
Khói trầm cao
thấp tiếng huyền gần xa.
Khúc đâu đầm
ấm dương hòa,
ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
Khúc đâu êm ái xuân tình,
ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên,
ấm sao hạt ngọc Lamđiều mới đông!
Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
Tẻ vui bởi tại lòng này,
Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
Nàng rằng: Vì chút nghề chơi,
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
Một phen tri
kỷ cùng nhau,
Cuốn dây từ
đấy về sau cũng chừa.
Chuyện trò
chưa cạn tóc tơ,
Gà đà gáy sáng
trời vừa rạng đông.
Tình riêng
chàng lại nói sòng,
Một nhà ai
cũng lạ lùng khen lao.
Cho hay thục
nữ chí cao,
Phải người sớm
mận tối đào như ai?
Hai tình vẹn
vẽ hòa hai,
Chẳng trong
chăn gối cũng ngoài cầm thơ.
Khi chén rượu
khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở
khi chờ trăng lên.
Ba sinh đã phỉ
mười nguyền,
Duyên đôi lứa
cũng là duyên bạn bầy.
Nhớ lời, lập
một am mây,
Khiến người
thân tín rước thầy Giác Duyên.
Đến nơi đóng
cửa cài then,
Rêu trùm kẽ
ngạch cỏ lên mái nhà,
Sư đà hái
thuốc phương xa,
Mây bay hạc
lánh biết là tìm đâu?
Nặng vì chút
nghĩa bấy lâu,
Trên am cứ giữ
hương dầu hôm mai.
Một nhà phúc
lộc gồm hai,
Nghìn năm dằng
dặc quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng
hết nàng Vân,
Một cây cù mộc
một sân quế hòe.
Phong lưu phú quý ai bì,
Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.
------------------------------------------------------------
Phần nghe đọc
Người đọc : Hướng Dương
Đọc theo văn bản Truyện Kiều từ 01 đến 10 Đọc riêng phần Chú giải bắt đầu từ 11 đến 15
----------------0-----------------
|
Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014
Thơ - Truyện Kiều - Nguyễn Du - 2
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Cả truyện Kiều in giấy khoảng 300 - 400 trang. Nếu post trên Blog chỉ dùng từ 1- 2 trang blog. Qua đây sáng tỏ thêm sự khác biệt giữa trang giấy và trang blog như thế nào..
Trả lờiXóa